Thứ Năm, 5 tháng 1, 2023


VĂN HOÁ GIAO TIẾP của NGƯỜI NAM BỘ qua TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH – MỘT GÓC NHÌNNGUYỄN VĂN NỞ 

HUỲNH THỊ LAN PHƯƠNG 

1.

     Giao tiếp là một hoạt động phổ biến trong đời sống xã hội. Con người không thể tồn tại và phát triển nếu không giao tiếp. Giao tiếp hướng tư duy con người đến những nhận thức trong sáng lành mạnh, hình thành tình cảm cao quý. Giao tiếp là hoạt động hiệu quả nhất để đưa con người đến gần nhau hơn. Chính qua giao tiếp con người hiểu về nhau và hiểu cả chính mình. Giao tiếp còn là thước đo nhân cách và phẩm giá con người, bởi “bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp” [1]. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, văn hoá giao tiếp của người Nam Bộ thể hiện rõ nét nhất qua cách nói năng, qua thái độ, tình cảm, cũng như hành vi ứng xử.

     Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ngổn ngang sự kiện, đa dạng về thế giới nhân vật cho nên đầy ắp những cuộc giao tiếp. Tuy nhiên, không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thường là không gian nội thất, gắn với cuộc sống gia đình, trong sinh hoạt đời thường. Vì thế, giao tiếp trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, thường diễn ra giữa các thành viên thuộc quan hệ gia đình, hay quan hệ tình cảm cá nhân là chủ yếu. Hồ Biểu Chánh không chỉ tái hiện sinh động, cụ thể hoạt động giao tiếp của người Nam Bộ, mà còn thể hiện sắc nét tình cảm, thái độ khi ứng xử, lúc nói năng của người Nam Bộ.

     Ý thức, tình cảm và thái độ của con người khi giao tiếp, luôn bộc lộ qua cách giao tiếp. Nó thể hiện ngay trong lời ăn, tiếng nói, trong nghi thức giao tiếp. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ nhấn mạnh những tác động của ý thức, tình cảm, thái độ của con người đến việc giao tiếp. Bởi nó là những yếu tố quan trọng đã góp phần hình thành văn hoá giao tiếp của người Nam Bộ. Các yếu tố này không đơn lẻ tác động đến giao tiếp của người Nam Bộ, cũng không bộc lộ theo từng yếu tố qua cách giao tiếp mà có sự đan cài, kết hợp, hoà quyện vào nhau.

2.

     Người Việt rất thích giao tiếp. Hơn thế, còn coi trọng giao tiếp. Việc thường hay thăm viếng và tính hiếu khách là hai biểu hiện nổi bật của thái độ thích giao tiếp. Tục ngữ Việt có câu “Áo năng may năng mới, người năng tới năng thân”. Người Nam Bộ cũng có thói quen hay thăm viếng nhưng không hoàn toàn chỉ vì thích giao tiếp, mà còn nhằm thể hiện sự quan tâm lẫn nhau, để bày tỏ tình cảm và để thể hiện phép lịch sự trong xã giao. Khi thăm viếng, người Nam Bộ hay giải thích về mục đích của mình. Bao giờ cũng là nhân tiện ghé qua, sẵn dịp thì đến. Bá Hỉ (Khóc thầm) ghé nhà Hội đồng Chánh, chưa vào trong nhà, ngay từ ngoài sân, đã vội vàng giải thích với Thu Hà: “Nghe em thi đậu, nên có dịp đi Long Xuyên qua ghé mừng cho em” (tr. 18); Bà Tư Kiến (Thiệt giả giả thiệt) ghé thăm ông Phán Thêm cũng nói ngay lí do cùng chủ nhà, ngay từ lúc chưa được mời vào: “Ông mới chào bà, chưa kịp mời vô nhà, thì bà nói rằng: Mấy tháng nay tôi không gặp ông, nay có dịp đi lên mé trên này, nên ghé thăm ông một chút.” (tr. 25). Có lẽ trong quan niệm của họ như thế mới là thật lòng, là chân tình. Cuộc viếng thăm sẽ thể hiện sự vô tư, trong sáng, nói lên tình cảm giữa những người giao tiếp. Dường như đây cũng là cách hay nhất để xua tan mối nghi ngờ, có thể có, của gia chủ là họ có dụng ý đi thăm vì một mục đích nào đó không xuất phát từ nghĩa tình thâm giao. Nếu không phải vì tiện mà ghé hay sẵn dịp nên đến, thì cũng phải có một lí do thật chính đáng cho cuộc viếng thăm. Và bao giờ cũng được bày tỏ ngay khi hai bên vừa mới gặp nhau: “Cháu thiệt mạnh hay chưa. Hơn một tuần nay bác không được thơ của con Tuý Nga, bác không biết bịnh cháu có giảm hay không, nên chạy lên đây thăm thử coi” (Đoá hoa tàn, tr. 142). Việc hay giải thích lí do khi thăm nhau cũng có thể xuất phát từ nguyên nhân người Nam Bộ có phần rụt rè, ngần ngại và rất dè dặt khi phải chủ động giao tiếp. Nhưng nếu được ai đến với mình thì lại rất vui vẻ, hiếu khách. Bất kì ai ở đâu xa đến vùng đất Nam Bộ đều nhanh chóng có được sự thân thiện, gần gũi. Bởi dân Nam Bộ rất cởi mở, hay bắt chuyện khi thấy có người đến, như bà Tư Kiến, chủ tiệm may Vĩnh Hưng trong tác phẩm Thiệt giả giả thiệt, phát hiện có một cô gái quê đang đứng rụt rè ở ngoài cửa tiệm, bà liền lên tiếng hỏi trước: “Cô em có việc chi muốn nói với qua hay sao?” (tr. 10).

     Ở Nam Bộ, thăm viếng còn được xem như một hành động tốt, phải làm của những người sống có tình, có nghĩa. Việc đến thăm gia đình ông Huyện Tân của vợ chồng quan Chủ quận (Cư kỉnh) mang ý nghĩa nói trên. Chính vì thế, việc thăm viếng đã gây thêm cảm tình, tạo sự nể phục của gia chủ đối với khách. Hơn nữa, còn góp phần tô thêm nét đẹp tính cách của những con người sống có trước, có sau như quan Chủ quận. Hồ Biểu Chánh tái hiện lại một nét đẹp trong văn hoá giao tiếp của người Nam Bộ. Hình thức đáp lễ khi có ai đến thăm viếng cũng được người Nam Bộ quan tâm. Chí Cao, một văn sĩ mới đến ở cạnh nhà Huyện Tân, anh ta sang thăm viếng để chào hỏi láng giềng, tạo tình thâm giao. Bà Huyện đã đáp lại bằng những lời lịch sự, bày tỏ ý thức đáp lễ: “Ông qua thăm vợ chồng tôi, tôi rất cám ơn. Để ông Huyện tôi về rồi tôi sẽ thưa lại cho ông Huyện tôi hay, đặng bữa nào rảnh ông Huyện tôi sẽ trả lễ.” (Cư kỉnh, tr. 31).

     Nam Bộ là đất mới. Di dân đến đây lập nghiệp đều là người từ miền Trung hoặc miền Bắc xa xôi, thậm chí có cả người Minh Hương. Những ngày đầu mở cõi, cuộc sống vất vả, đầy hiểm nguy, bao thử thách, lại thêm nỗi nhớ quê nhà da diết, người Nam Bộ lúc ấy có thói quen hay tụ tập nhậu nhẹt, đờn ca sau những buổi lao động cực nhọc hay lúc nông nhàn, giỗ tết, để xua bớt những buồn lo trong cuộc sống và cũng để giao tiếp. Có lẽ từ đó, việc họp mặt dần dần trở thành nhu cầu tất yếu trong cuộc sống. Không cần tết, không đợi ngày giỗ hay đám tiệc theo lễ nghi, người ta có thể họp mặt bất cứ lúc nào khi muốn và điều kiện cho phép. Việc họp mặt đi dần vào đời sống văn hoá của người Nam Bộ, thể hiện lối sống, cách giao tiếp mang nét riêng của vùng đất nông nghiệp và có thể xem đó cũng là thái độ thích giao tiếp của người Nam Bộ. Sinh hoạt mang tính chất văn hoá này khi diễn ra ở Nam Bộ không có vẻ trang trọng, kiểu cách, lễ nghi như ở các nơi khác trên miền Bắc cùng thời. Do đó, không có cảnh tranh giành, phân chia thứ bậc ở chốn đình, làng. Cũng không thấy hình thức nói năng, mời chào, đi lại kiểu quý ông, quý bà nơi thành thị. Người Nam Bộ, kể cả người sống ở thành thị, qua sự tái hiện của Hồ Biểu Chánh, nổi bật phong cách quê mùa nhưng chân chất, thiệt thà mà rất cởi mở, chân tình mỗi khi họp mặt. Mấy anh em: Cai tuần Bưởi, Ba Cam, Ba Rạng trong Con nhà nghèo, lâu ngày gặp lại, chỉ cần một con gà mái đem nấu cháo là họ có được một buổi họp mặt, ngay lúc đêm đã khuya nhưng thật ấm áp, thân tình. Bao nhiêu chuyện buồn, vui đều có thể trút cạn theo li rượu của đồng quê. Những người đứng tuổi, trải đời, có học thức cũng hay họp mặt. Buổi giao tiếp của họ nổi bật nét tao nhã, gợi lên một lối sống thanh cao kiểu nhà nho. Bên chung trà, dưới ánh trăng, trong khung cảnh yên ả nơi ruộng đồng, họ thường ngồi bên nhau để nói chuyện đạo nghĩa ở đời, bàn cách sống trong sạch. Đó là những buổi họp mặt được tái hiện trong tác phẩm Đoá hoa tàn, giữa Cai tổng Bình, ông giáo Lạc, Hải Đường và Tuý Nga.

     Dân Nam Bộ hay họp mặt thường là vì ham vui, thích giao tiếp, hơn là hám lợi. Mặc dù, thực tế cho thấy việc giao tiếp rộng giúp họ thuận lợi nhiều trong công việc và có không ít người biết tận dụng lợi thế của việc giao tiếp rộng, như Bà Hương quản Viện: “Hễ nhà có cúng quải thì bà ưa mời hết mấy thầy mà đãi, còn ngày thường thầy nào tới chơi thì bà tiếp rước cũng ân cần lắm… Bởi cách cư xử của bà như vậy, nên bà goá bụa mà việc làm ăn của bà chẳng hề trắc trở một chút nào.”(Thầy thông ngôn, tr. 50-51). Cũng có trường hợp chứng minh giao tiếp rộng sẽ tạo được thân tình với nhiều đối tượng trong xã hội, dễ khiến người khác kiêng dè, nể sợ. Phạm Kì trong Ngọn cỏ gió đùa nhiều lần muốn hại Lê Văn Đó nhưng không dám vì biết Lê Văn Đó là người giao tiếp rộng, có quan hệ thân thiết với quan trên: “Ông đội Phạm Kì giận hết sức, mặt mày tái xanh, tay chơn run rẩy, ông muốn bắt luôn ông Thiên Hộ mà giải lên tỉnh một lượt với con Ánh Nguyệtđặng cho quan trên tra xét lại coi ông Thiên Hộ Chánh Tâm này có phải là Lê Văn Đó hay không, còn nàng Ánh Nguyệt làm như vậy có phải là làm đĩ hay là không phải, nhưng vì ông nhớ lại Thiên Hộ là bực giàu sang lại thân thiết với các quan trên tỉnh, sợ chén đá khó hơn chén kiểu được…” (tr. 237). Tuy nhiên, trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, có lắm kẻ biến sinh hoạt mang ý nghĩa văn hoá này thành hình thức ăn chơi hưởng thụ để thoả mãn lối sống ích kỉ như buổi họp mặt bạn bè ở nhà Hội đồng Đàng trong Bỏ chồng, hay để gặp nhau cho có cơ hội thể hiện mình, chê bai người khác như buổi họp mặt bạn bè trong Thiệt giả giả thiệt. Hồ Biểu Chánh luôn tái hiện bức tranh hiện thực muôn màu muôn vẻ, đầy tính chân thật cho nên không che đậy cái xấu. Nó hiện lên như một sự cảnh báo những tiêu cực xã hội cần được chấn chỉnh.

     Giao tiếp được xem như một phương diện thể hiện năng lực ứng phó của con người trong môi trường xã hội. Từ việc giao tiếp, con người bộc lộ rõ nhất tình cảm, tính cách và phẩm chất đạo đức. Qua cái nhìn của Hồ Biểu Chánh, người Nam Bộ rất trọng đạo lí ở đời, lấy tình nghĩa làm tiêu chí trong giao tiếp. Và trở lại, giao tiếp cũng là cách thực hiện lối sống tình nghĩa. Một việc làm khá phổ biến trong giao tiếp của người Nam Bộ, được Hồ Biểu Chánh thể hiện như một nét văn hoá tiêu biểu: tặng quà. Người Nam Bộ thường tặng quà khi nhận được sự giúp đỡ, nhằm bày tỏ lòng tri ân. Dân Nam Bộ vốn trọng nghĩa khinh tài, làm ơn không bao giờ nghĩ đến việc người khác sẽ trả ơn mình nhưng nhận được sự giúp đỡ của ai là nhớ suốt đời không quên. Tặng quà chỉ là một cách để họ bày tỏ tấm lòng, hoặc muốn bù đắp phần nào công lao đối với người đã nhiệt tình giúp mình. Nhất là đối với người làm ơn mà có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, họ càng muốn nhân trả ơn để được giúp đỡ lại. Dù thế nào đi nữa thì trong giao tiếp, ở những mối quan hệ trong sáng, khách thể và chủ thể giao tiếp đều xem vật chất chỉ là phương tiện của cuộc sống. Tình cảm mới thực sự làm nên giá trị tốt đẹp của cuộc đời. Chính vì thế tặng quà đã trở thành một nét đẹp trong văn hoá giao tiếp. Nó phân biệt hẳn với những hình thức quà cáp mua chuộc, dụ dỗ, cầu cạnh, đút lót để tư lợi hay làm điều tội lỗi. Việc tặng quà của ông Phán Thêm trong Thiệt giả giả thiệt không thể đồng nhất với việc tặng quà của Cậu Hai Nghĩa trong Con nhà nghèo. Mặc dù trong cả hai trường hợp người tặng đều có tình cảm đặc biệt đối với người được tặng.

      Ở Nam Bộ, chỉ cần được ăn một bữa cơm đạm bạc mà thân mật, là người dân nơi đây xem như có tình nghĩa nên cần phải đáp trả sao cho xứng với nghĩa tình. Bà Nhiêu trong Đại nghĩa diệt thân dạy con: “…kiếm dừa chuối đốn đem cho chủ nhà nghe hôn con. Bữa hổm ăn cơm của người ta. Nay mình ra thì phải cho chút đỉnh gì đó mà đền ơn.” (tr. 70).

      Khi đã thành văn hoá trong giao tiếp, việc tặng quà trở nên quen thuộc trong mọi sinh hoạt hằng ngày. Vô tình nó bị biến dạng theo những hành vi không tốt. Những lúc ấy nó còn được khoác thêm chiếc áo cầu kì dệt bằng ngôn từ hoa mĩ, khách sáo, dễ khiến đối tượng tiếp nhận bị đánh lừa, sự giả dối được ngộ nhận là cái lịch lãm trong giao tiếp. Hồ Biểu Chánh đã tái hiện lại trường hợp nói trên qua việc tặng quà của Tất Đắc (Từ hôn), khi anh ta đóng vai một Bác vật, mới du học ở Pháp trở về, đến nhà Bạch Yến để dạm hỏi cô:

     “Đến thăm cô tôi chẳng biết lấy vật chi làm lễ tấn kiến cho xứng đáng, nên tôi tạm dưng cho cô một bó bông hường với một ve dầu thơm: bông trắng tặng cái tiết của cô, dầu thơm tặng cái danh của cô, nếu cô nhận chút lễ mọn của tôi, thì tôi lấy làm vinh hạnh lắm.” (tr. 64).

     Xã hội Nam Bộ đầu thế kỉ XX trượt dài theo con dốc của sự tha hoá về đạo đức. Sức mạnh của đồng tiền và quyền lực cứ lớn lên vùn vụt. Lối sống mới đã rèn tập cho con người đầu óc thực tế, thực dụng. Cơn lốc đó đã vô tình làm biến dạng các giá trị văn hoá tốt đẹp vốn có. Người ta bắt đầu và quen dần với ý thức tặng quà để tư lợi, thậm chí là vụ lợi hay mưu cầu bất chính. Có lẽ quan niệm “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” đã được tích cực quảng bá trong thời gian này. Cho nên, ngay cả người tốt, sống trọng nhân nghĩa như Thủ Nghĩa trong Chúa tàu Kim Quy cũng bị chi phối vào việc phải tặng quà quan trên để ra mắt quan, lúc mới đến An Giang, với mong muốn được quan dễ dãi cho việc làm ăn của mình. Nhân vật Đạt trong Đại nghĩa diệt thân, vốn con nhà gia giáo, từng là nghĩa binh đánh Tây, khi bắt đầu có ý định cầu thân với kẻ theo giặc, nhằm được sống yên thân, cũng dùng hình thức tặng quà để tạo mối quan hệ trong giao tiếp lúc sơ ngộ “để tôi làm kiếm được cá ngon chị sẽ đem qua cho ông rồi nhơn dịp chị gởi gắm giùm tôi cho tôi an thân làm ăn” (tr. 92). Trong cái nhìn của Hồ Biểu Chánh, những gì đi sâu vào lối sống, trở thành tập quán, thói quen lâu đời đều mang ý nghĩa văn hoá. Nhưng nó có được bền vững theo năm tháng, đánh bật mọi tác động xấu, để giữ trọn vẹn những giá trị tốt đẹp hay không là tuỳ thuộc vào bản lĩnh của con người. Người Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã chứng minh cho bản lĩnh của mình. Mọi hành vi xấu, mọi ứng xử trái với truyền thống văn hoá đều được nhận diện. Người có hành vi như Đạt trong Đại nghĩa diệt thân không thể nào đón nhận kết quả tốt đẹp, mà phải trả giá bằng cái chết nhục nhã. Tặng quà như Thủ Nghĩa (Chúa tàu Kim Quy) đã được nhắc nhở khéo léo bằng sự thanh liêm của vị quan mẫu mực. Tất Đắc biết hồi tâm chuyển ý khi thấy mình đã sống giả dối.

     Lối sống quý tình trọng nghĩa đã trở thành cố hữu ở người Nam Bộ. Cũng chính vì quá trọng tình nên khi bị phụ tình, không riêng trong tình yêu nam nữ, người Nam Bộ cay đắng đến cay cú. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là tình cảm đổi thay, hình thức giao tiếp cũng theo đó mà thay đổi, kể cả theo hướng tiêu cực. Cô Sáu Lí (Thầy thông ngôn) khi còn yêu thầy thông Phong, lời trao gửi cùng thầy nghe thật ngọt ngào, tình tứ, nồng thắm, đượm chất duyên dáng, vẻ lịch thiệp. Nhưng khi nhận ra chàng ta đang có ý định quất ngựa truy phong, cô lập tức thay đổi cách xưng hô (thầy, tôi à mầy, tao), tỏ thái độ khinh bỉ (lấy khăn và phong thơ liệng trúng ngay mặt thầy), còn buông lời mắng nhiếc không chút nể nang. Không thể phủ nhận, tình cảm đã chi phối rất nhiều đến cách giao tiếp của người Nam Bộ.

     Trong xã hội có sự phân chia giai cấp và độ chênh lệch quá lớn về điều kiện sống giữa các giai tầng, rất khó tránh sự phân biệt đối xử trong giao tiếp. Tình nghĩa, đạo lí cũng có khi bị đẩy lùi bởi yếu tố bằng cấp, vị trí xã hội, quyền lực và tiềm năng kinh tế trong giao tiếp ở người Nam Bộ. Trước một người trẻ tuổi nhưng chức phận cao, người ta có thể nói năng nhún nhường, tỏ ra quá tôn kính, thậm chí còn làm mất đi vẻ tự nhiên và tính chân thật trong lời nói: “Mời quan Kinh lí ngồi uống nước, cho phép tôi vô lễ ra sau dạy bầy trẻ sửa soạn dọn cơm cho quan Kinh lí dùng” (Con nhà nghèo, tr. 254). Đó là lời của Cô Ba Nhân, một phụ nữ đã trên bốn mươi nói với Kinh lí Hai, chàng trai 25 tuổi, đáng tuổi cháu bà. Với những đối tượng khác, thân phận thấp kém, nhân vật này không hề có cách giao tiếp như trên. Sống trong xã hội có sự phân biệt sang hèn, văn hoá giao tiếp ở Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ XX, không tránh khỏi những tác động của tư tưởng coi trọng địa vị, thứ bậc. Có khi, khách thể còn nhận được sự trân trọng, tôn vinh đến mức quá đáng: “Thầy Hội đồng Chánh bắt tay Vĩnh Thái và nói: Tôi lấy làm may mắn mà được cậu tú tài đến nhà, vậy tôi xin thỉnh cậu vô” (tr. 19). Vì nghe giới thiệu Vĩnh Thái mới du học bên Tây trở về, với bằng cấp tú tài, cho nên dù chưa biết hắn là người như thế nào, một ông Hội đồng rất nhân đức, trọng nghĩa khinh tài như Hội đồng Chánh vẫn không thể không có thái độ trọng thị.

     Những biểu hiện trên cho thấy giao tiếp theo đối tượng cũng khá phổ biến ở Nam Bộ thời bấy giờ. Nó đối lập với biểu hiện trọng tình cảm, đạo lí. Nó gặm nhấm những giá trị tốt đẹp trong văn hoá giao tiếp của người Nam Bộ. Ngay cả một tên lính, kẻ làm tôi tớ cho Phạm Kì (Ngọn cỏ gió đùa) cũng có sự phân biệt đối tượng khi giao tiếp. Với Ánh Nguyệt, một cô gái thân cô, thế cô, hắn đã “nắm đầu mà kéo xển đi, rồi nói rằng: “Ê! Thứ đồ đĩ khéo nhiều chuyện! Về đồn đây rồi mi coi.” (tr. 231). Nhưng khi gặp ông Thiên Hộ, một người giàu có, thế lực nhiều thì lập tức hắn có thái độ giao tiếp khác hẳn: “Tên lính lật đật buông Ánh Nguyệt ra, rồi xá ông Thiên Hộ và thưa rằng: “Thưa ông Thiên Hộ, con nầy nó đi làm đĩ nên ông Phạm Kì sai tôi đi bắt nó mà đem về đồn.” (tr. 232).

     Người Việt khi giao tiếp thường có ý thức xem trọng danh dự và sĩ diện. Dân Nam Bộ không ngoại lệ, cũng rất sĩ diện và trọng danh dự. Cho nên, dù có thế nào chăng nữa cũng “đóng cửa dạy nhau”, không bao giờ muốn “trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã thông”. Nhân vật Thu Hà trong tác phẩm Khóc thầm, biết chồng làm nhiều chuyện phi lí, thất đức, bó buộc tá điền nghèo khó quá đáng, cô muốn bước ra nói lời ngăn cản chồng trong buổi họp mặt tá điền nhưng: “mới bước được vài bước rồi cô nghĩ: Chồng mình đương nói chuyện với người ta, nếu mình ra bỉ sử, thì còn gì là thể diện của chồng mình. Hễ mình không trọng chồng mình thì thiên hạ coi chồng mình ra cóc rác gì nữa.” (tr. 124). Đến lúc đã hiểu rõ lòng dạ xấu xa, ác độc của chồng, trong lòng Thu Hà không còn chút tình cảm vợ chồng, cô vẫn bị cái sĩ diện của ngưởi tử tế ràng buộc mãi, khiến cô không dám bày tỏ sự thật trước mọi người, thậm chí không dám tham gia giao tiếp. Bao giờ Thu Hà cũng cố gắng tìm cách nói đỡ cho chồng trước mặt người khác, nhằm bảo vệ thanh danh cho chồng. Bắt con Phó Lí Thâu ở đợ trừ nợ, đòi ông Hai Sửu thối tiền ở đợ của con,… Vĩnh Thái ngần ngại gì mà không dám làm những việc đó, Thu Hà biết hết sự thật, cô vẫn tìm cách giải quyết sao cho êm thắm và luôn miệng nói với mọi người: “Thầy Hai thẩy nói chơi với chú chớ bắt nó lên ở mà làm gì” (tr. 131), hay “thầy Hai thẩy giận nó nên thẩy nói như vậy, không sao đâu, ông đừng có lo” (tr. 150). Đối với cô, thể diện của chồng cũng chính là thể diện của chính mình và của cả gia đình cô. Thà cô âm thầm nuốt lệ ôm sầu chứ nhất quyết không để cho người ngoài thấy rõ sự rệu rã trong đời sống gia đình của mình. Cách ứng xử của Thu Hà dễ gợi cho người đọc một cảm nhận về con người cam chịu, không dám đấu tranh cương quyết với cái ác. Nhưng nghĩ sâu hơn vào sự việc sẽ nhận ra những duyên cớ sâu xa. Đó không chỉ là sự mềm mỏng khéo léo trong giao tiếp mà còn là biểu hiện của phẩm hạnh cao quý ở người phụ nữ Nam Bộ. Thu Hà rất sĩ diện nhưng không phải là thứ sĩ diện hảo. Cô sĩ diện để bảo vệ danh dự cho gia đình, cho người thân. Bởi vì với cô, Vĩnh Thái có thế nào cũng đã là chồng của cô. Thu Hà là hình ảnh người phụ nữ Nam Bộ quên mình để sống cho bổn phận. Sĩ diện của Thu Hà có cội nguồn từ đạo lí làm vợ, làm con theo quan niệm phong kiến, luôn nghĩ đến việc tòng phu, tòng phụ.

     Không chỉ người tốt biết sĩ diện trong giao tiếp, mà ngay cả những kẻ có lòng dạ xấu xa, tham phú phụ bần như thầy thông Phong trong Thầy thông ngôn cũng rất sĩ diện khi giao tiếp. Anh ta mê mẩn nhan sắc của cô Diệu Anh, những mong được cưới cô làm vợ nên kiên trì lân la nhà cô, muốn tìm cách lấy lòng mẹ con cô bằng sự lịch lãm trong giao tiếp, không ngờ bị Trường Sanh làm nhục ngay tại bữa tiệc đông đúc. Sĩ diện của một thầy thông mới tập việc, lại học đòi kiểu cách quý ông ở chốn quan trường khiến thầy căm giận kẻ đã hạ nhục mình trước mọi người. Thầy định thưa kiện để rửa hận nhưng không thành. Chính câu nói chơi của bà Hương quản Viện cùng nụ cười ngụ đầy ý mỉa mai, xem thường của cô Diệu Anh đã đánh thức lòng tự trọng trong thầy, đẩy ý thức sĩ diện lên đến đỉnh điểm, vì vậy “từ đó về sau thầy không chịu xuống xóm Cái Sơn chơi nữa, dầu ai rủ cho mấy thầy cũng không đi.” (tr. 60).

     Người nghèo sĩ diện càng lớn và lòng tự trọng cũng rất cao. Dù cuộc sống có khó khăn, bức bách đến đâu, họ vẫn sống theo tâm niệm đói cho sạch, rách cho thơm. Tí trong Cha con nghĩa nặng được bà Hương quản Tồn cho mượn tiền. Bà chủ động muốn giúp vốn để Tí làm ăn. Bà không mong số tiền đó được sớm hoàn lại nhưng con người nghèo khó đầy tự trọng như Tí luôn ý thức sĩ diện của người nghèo. Anh ta không lạm dụng lòng tốt người giàu. Tí có được tiền là trả lại ngay cho bà Hương Quản.

     Tính sĩ diện, ý thức về danh dự như đã thấm sâu vào máu thịt của người Việt, nó hình thành từ khi con người mở mắt chào đời. Nó lớn lên và lộ diện ngày càng rõ nét theo sự trưởng thành của mỗi cá nhân. Cho nên, không ai là không có ý thức về lòng tự trọng và không biết sĩ diện. Ngay một đứa trẻ sống nghèo khổ, vất vưởng như Thu Cúc (Chút phận linh đinh) cũng biết sĩ diện trong giao tiếp. Được bạn mời về nhà, nhân có đám giỗ, Thu Cúc do dự không muốn đi, chỉ vì lí do: “có khách khứa đông mà em ăn mặc dơ dáy quần áo lấm lem, em thẹn lắm chị à!” (tr. 122). Không phải Thu Cúc mặc cảm cho phận nghèo nhưng dù nghèo nó vẫn muốn được tươm tất, sạch sẽ trước mọi người, để mình không quá tệ trong mắt người khác. Đó chính là tâm lí phổ biến của người Việt khi giao tiếp.

3. 

     Giao tiếp của người Nam Bộ được tái hiện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh mang nhiều nét tinh tế. Bởi nó hình thành từ trong lối sống, cách ăn, nếp ở của người Nam Bộ. Và cũng là thói quen, tập quán trong quan hệ giữa người và người. Người Nam Bộ thích giao tiếp nhưng lại có biểu hiện dè dặt và ít nhiều rụt rè trong giao tiếp. Bản tính người Nam Bộ rất cởi mở nhưng lại có đôi chút thiếu tự tin. Cho nên thật dễ hiểu vì sao người Nam Bộ ngại chủ động trong giao tiếp. Người Nam Bộ sống tình cảm và luôn hành xử, giao tiếp theo nghĩa tình. Chính vì thế, văn hoá giao tiếp ở Nam Bộ là văn hoá của nghĩa tình. Dân Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn, thích đơn giản mà chân tình cho nên trong sinh hoạt, lối sống, kể cả giao tiếp đều không ham cầu kì, hoa mĩ mà chuộng sự tự nhiên, thích cái thật lòng. Tất cả những điều nói trên chính là các yếu tố hợp thành đặc điểm văn hoá giao tiếp của người Nam Bộ. Qua sự sàng lọc của thời gian, những gì hợp với lối sống, quan niệm thời đại sẽ mãi tồn tại cùng con người, kết tinh thành truyền thống văn hoá xứ sở.

     Đặc điểm giao tiếp của người Nam Bộ được hình thành từ cái nôi văn hoá dân tộc. Mặc dù có gợi lên nét riêng, gắn với lối sống, tâm hồn của những con người Nam Bộ phóng khoáng, bộc trực nhưng không vì thế mà hoàn toàn khác biệt với nếp ăn, cách nói, hình thức quan hệ của con người Việt Nam nói chung.

     Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đã làm sống lại đời sống văn hoá Nam Bộ ở một thời kì đầy biến động, nhiều xáo trộn dữ dội nhưng những gì làm nên bản sắc văn hoá của vùng đất vẫn còn nguyên vẹn. Đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là cách đi tìm lại các giá trị văn hoá truyền thống của một thời đã qua, cách đây không lâu nhưng dễ bị lãng quên do tác động của lối sống hiện đại. Chính vì thế càng tìm hiểu, càng phát hiện thêm nhiều giá trị đặc sắc ở tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Mai Ngọc Chừ, Văn hoá & ngôn ngữ phương Đông, NXB Phương Đông, 2009.

2. Nguyễn Văn Nở, Phong cách học tiếng Việt, NXB Đại học Cần Thơ, 2012.

3. Huỳnh Thị Lan Phương, Đời sống văn hoá ở nông thôn Nam Bộ trong một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Nghiên cứu Văn học, số 7 (413), 2006.

4. Trang Quang Sen – Phan Tấn Tài – Nguyễn Văn Nở, Hồ Biểu Chánh người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2006.

5. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2004.

TÁC PHẨM KHẢO SÁT

1. Hồ Biểu Chánh, Thiệt giả giả thiệt, NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 1997.

2. Hồ Biểu Chánh, Khóc thầm, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1997.

3. Hồ Biểu Chánh, Ngọn cỏ gió đùa, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1988.

4. Hồ Biểu Chánh, Nợ tình, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1988.

5. Hồ Biểu Chánh, Đoạn tình, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2001.

6. Hồ Biểu Chánh, Kẻ làm người chịu, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1988.

7. Hồ Biểu Chánh, Chút phận linh đinh, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1988.

8. Hồ Biểu Chánh, Con nhà nghèo, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1997.

9. Hồ Biểu Chánh, Từ hôn, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1988.

10. Hồ Biểu Chánh, Lời thề trước miễu, NXB Văn hoá Sài Gòn, 2006.

11. Hồ Biểu Chánh, Nợ đời, NXB Đức Lưu Phương, 1936.

12. Hồ Biểu Chánh, Cha con nghĩa nặng, NXB Văn hoá Sài Gòn, 2005.

13. Hồ Biểu Chánh, Đoá hoa tàn, NXB Văn hoá Sài Gòn, 2006.

14. Hồ Biểu Chánh, Tân phong nữ sĩ, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1997.

15. Hồ Biểu Chánh, Cư kỉnh, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1997.

16. Hồ Biểu Chánh, Đại nghĩa diệt thân, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1997.

17. Hồ Biểu Chánh, Thầy thông ngôn, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1988.

             THẠC SĨ TRƯƠNG HOÀNG LONG SƯU TẦM VÀ GIỚI THIỆU

Thành ngữ tiếng Việt cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua sáng tác của một số nhà văn Nam Bộ tiêu biểu

 



VIETNAMESE IDIOMS FROM THE LATE 19TH CENTURY TO THE EARLY 20TH CENTURY IN THE LITERARY WORKS BY SOME TYPICAL SOUTHERN VIETNAMESE WRITERS

Tác giả bài viết: ĐỖ THỊ KIM LIÊN
(Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Vinh, 182 Lê Duẩn, Vinh, Nghệ An, Việt Nam)

TÓM TẮT

     Trong bài viết này, sau khi chỉ ra các tiêu chí xác định thành ngữ, chúng tôi tiến hành phân tích cách sử dụng thành ngữ trong truyện ngắn và tiểu thuyết của một số nhà văn Nam Bộ tiêu biểu giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bài viết cũng đặt vấn đề đối chiếu với cách sử dụng thành ngữ trong một số tác phẩm xuất bản sau năm 2000 của các nhà văn đương thời nhằm tái tạo diện mạo thành ngữ tiếng Việt giai đoạn giao thời giữa hai thế kỷ.

Từ khóa: Thành ngữ, thành ngữ nguyên dạng, thành ngữ biến dạng, văn học Nam Bộ, phương ngữ Nam Bộ.

ABSTRACT

     In this paper, after showing the criteria to identify idioms, we analyse some idiom uses in short stories and novels by some typical writers in southern Vietnam from the late 19th century to the early 20th century. Putting them in contrast to the idiom uses in some literature works published after the year of 2000 by the contemporary writers aims to describe Vietnamese idioms in the transitional period of two centuries.

Keywords: Idioms, intact idioms, deformed idioms, Southern Vietnamese literature, Southern Vietnamese dialect.

x
x x

1. Khái quát chung về hoàn cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

     Từ cuối thế kỉ XIX đến 1945, một mốc lịch sử đáng ghi nhớ là năm 1858, Thực dân Pháp nã phát súng đầu tiên tấn công Đà Nẵng và Nam Bộ, đến năm 1874, vua Tự Đức chính thức thừa nhận quyền thống trị của Thực dân Pháp trên toàn Nam Kì lục tỉnh. Từ tháng 7-1879 trở đi, Thực dân Pháp đã xúc tiến bộ máy cai trị với nhiều chính sách kinh tế xã hội nhằm phá vỡ thiết chế phong kiến trong đời sống sinh hoạt ở lục tỉnh Nam Kì. Từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam. Như vậy, về thời gian sử dụng chữ quốc ngữ thì từ năm 1879, chữ quốc ngữ chính thức được dùng để dạy học trong nhà trường cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Nam Bộ, ở Bắc Bộ muộn hơn khoảng 30 năm (từ năm 1909). Để đạt được mục đích cai trị một cách nhanh chóng, người Pháp bằng mọi cách đã sử dụng chữ quốc ngữ – một phương tiện giao tiếp quan trọng – trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các văn bản pháp lý. Như vậy, để điều hành quản lý xã hội, tầng lớp chức việc mới đã không còn sử dụng chữ Hán trong các văn bản hành chínhcông vụ. Tầng lớp trí thức mới cũng sử dụng chữ quốc ngữ để sáng tạo văn bản nghệ thuật, văn bản báo chí, văn bản khoa học. Ngay trong lĩnh vực tôn giáo, chữ quốc ngữ cũng được sử dụng làm phương tiện truyền đạo, để lại một số dấu tích của phương ngữ Nam Bộ trong lĩnh vực này như: kinh giáo (sách đạo), đạo nhơn luân (đạo cang thường, giềng mối buộc người ta), phước (phúc), thờ phượng (thờ phụng), đớng minh thánh (đấng minh thánh), giáng sanh (giáng sinh), khoan dong (khoan dung)… Trong hoàn cảnh lịch sử như vậy, nhiều nhà văn Nam Bộ đã sáng tác truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ, đăng trên các báo Gia Định báo (1865-1909), Thông loại khóa trình (1888-1889), Nông cổ mín đàm (1909-1924), Công luận báo (1917-1938), Lục tỉnh tân văn (1920-1940)…Trong giai đoạn đầu tiên này, các nhà văn đã từ bỏ lối viết bằng chữ Hán để sáng tác bằng chữ quốc ngữ. Việc làm này của các nhà văn đã có ý nghĩa hết sức to lớn: họ đã góp phần truyền bá chữ quốc ngữ. Đồng thời, qua các văn bản nghệ thuật, chúng ta có thêm minh chứng một cách xác thực về cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ của các nhà văn Nam Bộ thời kì cuối XIX đầu XX. Trong bài viết này, chúng tôi xem xét thành ngữ qua sáng tác của một số tác giả Nam Bộ tiêu biểu sau:

     – Nguyễn Trọng Quản, Truyện thầy Lazarô phiền;

     – Lương khắc Ninh, Thương cổ luận trên “Nông cổ mín đàm”;

     – Trương Duy Toản, Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân;

     – Trần Chánh Chiếu, Hoàng Tố Oanh hàm oan;

     – Lê Hoàng Mưu, Truyện nàng Hà Hương;

     – Hồ Biểu Chánh, Cay đắng mùi đời; Thầy thông ngôn; Cha con nghĩa nặng; Chúa tàu Kim Quy; Ngọn cỏ gió đùa; Kẻ làm người chịu;

     – Biến Ngũ Nhi, Ba Lâu ròng nghề đạo tặc.

2. Cơ sở xác định thành ngữ

     Từ trước đến nay, khi bàn về đặc điểm của thành ngữ, hầu hết các tác giả đều tập trung chú ý vào những đặc điểm chính sau: cấu trúc, ý nghĩa, tính cấp độ của thành ngữ.

     – Năm 1996, trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, tác giả Nguyễn Như Ý (chủ biên) đưa ra định nghĩa: “Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định, có tính nguyên khối về ngữ nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác tổng số ý nghĩa của các thành tố cấu thành nó, tức là không có nghĩa đen và hoạt động như một từ riêng biệt ở trong câu” [1: 271].

     – Năm 1997, nhóm tác giả Nguyễn Lực, Lương Văn Đang [2], kết luận thành ngữ có ba
đặc điểm sau:

      i) Về mặt kết cấu hình thái: Thành ngữ thuộc loại hình thái cố định.

     ii) Về biểu hiện nghĩa của thành ngữ: Một bộ phận có tính đa nghĩa nhưng bộ phận mang nghĩa bóng quan trọng hơn cả. Nghĩa này có tính khái quát, tượng trưng cho toàn bộ tổ hợp, tuy vậy, nó không phải là tổng số nghĩa của các thành tố cộng lại. Có người xem nghĩa của thành ngữ có tính chất biểu trưng. Khi nói nghĩa bóng là nói chung nhiều phương thức biểu hiện nghĩa của thành ngữ như: ẩn dụ, hoán dụ, khoa trương, so sánh…

     iii) Về mặt vận động và quá trình sử dụng thành ngữ, thành ngữ có thể có hai dạng dạng: ngữ cố định, có khi như một cụm C-V [2: 9-11].

     – Tác giả Hoàng Văn Hành [3] khẳng định thành ngữ có các đặc điểm: Tính cố định về hình thái cấu trúc; Tính cố định và bóng bảy về ý nghĩa. Ông viết: “Thành ngữ là một tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái-cấu trúc; hoàn chỉnh và bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt trong khẩu ngữ” [3:24]. Ví dụ: mồm năm miệng mười không nói mồm mười miệng năm.

     – Năm 2010, tác giả Diệp Quang Ban lại khẳng định: “Thành ngữ (formulatic phrase) là một tổ hợp tương đối ít biến đổi trong thành phần cấu tạo, có tính chất của đơn vị trọn vẹn về nghĩa tương đương với cấu tạo của một từ có nghĩa từ vựng, như nước đổ lá khoai có nghĩa là “không có tác dụng”, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược là “không thống nhất (với nhau) về ý nghĩ, hành động.”[4: 458].

     – Tác giả Nguyễn Thiện Giáp thì khẳng định “Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm” [5: 77]. Như vậy, tác giả Nguyễn Thiện Giáp cũng quan tâm đến mặt cấu tạo, ý nghĩa và cấp độ của thành ngữ.

     Từ những ý kiến trên, chúng tôi kế thừa và bổ sung thêm một tiêu chí để xét thành ngữ, đó là tiêu chí chức năng, thành ngữ có chức năng cấu tạo phát ngôn (trong sử dụng). Vậy, có thể hiểu thành ngữ là cụm từ cố định, có kết cấu chặt chẽ, vần điệu, mang nghĩa biểu trưng, có chức năng cấu tạo phát ngôn.

     Trong hành chức, thành ngữ có những khác biệt so với khi chúng đứng tách biệt ngữ cảnh ở chỗ: thứ nhất, khi hành chức trong những văn bản thuộc những thể loại khác nhau, thì thành ngữ mang phong cách chức năng khác nhau. Chẳng hạn, phần lớn thành ngữ được sử dụng trong văn bản của Hồ Chủ tịch thuộc phong cách chính luận, còn thành ngữ được sử dụng trong văn bản của các nhà văn lại thuộc phong cách nghệ thuật; thứ hai, khi hành chức, thành ngữ được sử dụng chịu ảnh hưởng của phương ngữ vùng miền. Về điểm này, tác giả Hoàng Văn Hành viết: “Khi nghiên cứu thành ngữ theo hướng này [trong hành chức] sẽ rất hữu ích, nếu chú ý nghiên cứu và miêu tả kĩ các biến thể2 của thành ngữ. Bởi lẽ ở các biến thể của thành ngữ không chỉ hàm chứa những quy tắc biến đổi về hình thái – cấu trúc, những quy tắc tạo nghĩa của thành ngữ mà cũng còn tàng ẩn cả những trầm tích văn hóa-ngôn ngữ mang tính phương ngữ (kể cả phương ngữ địa lí cũng như phương ngữ xã hội” [6: 161]; thứ ba, khi sử dụng, cấu tạo thành ngữ có sự biến đổi trong một số trường hợp cụ thể phụ thuộc vào sự cách tân sáng tạo của nhà văn trong những ngữ cảnh giao tiếp cụ thể.

     Dựa vào các đặc điểm trên, chúng tôi tiến hành khảo sát thành ngữ được sử dụng trong truyện ngắn, tiểu thuyết của các nhà văn Nam Bộ giai đoạn từ cuối XIX đến đầu XX.

3. Đặc điểm cách sử dụng thành ngữ của một số nhà văn Nam Bộ giai đoạn cuối XIX đầu XX

     Qua thống kê truyện ngắn và tiểu thuyết của các nhà văn Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chúng tôi thu được 312 thành ngữ.

     Chúng có những đặc điểm sau đây:

     3.1. Thành ngữ được sử dụng chủ yếu là nguyên dạng

     Đây là một đặc điểm của cách sử dụng thành ngữ giai đoạn cuối XIX đến đầu XX, khác với các nhà văn hiện đại. Theo thống kê của chúng tôi, với 5 tác giả Lê Lựu, Nguyễn Ngọc Tư, Chu Lai, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái thì những tác giả hiện đại lại thường dùng cả thành ngữ nguyên dạng và thành ngữ biến thể. Số lượng thành ngữ biến thể chiếm tỷ lệ gần 20,4% (xem bảng 1 và 2).

     Dưới đây là hai bảng so sánh số lượng và tỷ lệ thành ngữ của hai giai đoạn: giai đoạn từ cuối XIX đến đầu XX và giai đoạn hiện đại nhằm mục đích so sánh cách sử dụng thành ngữ của các tác giả Nam Bộ giai đoạn cuối XIX đầu XX với các tác giả truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại.

TTTác giảTruyệnTổng sốSố lượng thành
ngữ biến dạng
Tỷ lệ % TN
biến dạng
1Nguyễn Trọng QuảnThầy Lazaro phiền1100
2Trần Chánh ChiếuHoàng Tố Oanh hàm oan2300
3Lê Hoàng MưuChuyện nàng Hà Hương5510,1%
4Nguyễn Chánh SắtNghĩa hiệp kì duyên2900
5Hồ Biểu ChánhNgọn cỏ gió đùa7700

Cộng
19510,005%

Bảng 2. Số lượng và tỷ lệ thành ngữ biến dạng so với
thành ngữ nguyên dạng của 5 nhà văn hiện đại

TTTác giả


TruyệnTổng số
thành ngữ
Số lượng thành
ngữ biến dạng
Tỷ lệ % TN
biến dạng
1Lê LựuSóng ở đáy sông57712,28%
2Nguyễn Ngọc TưCánh đồng bất tận511631,37%
3Chu LaiPhố821518,29%
4Võ Thị HảoGiàn thiêu1832010,09%
5Hồ Anh TháiSBC là săn bắt chuột1653924,63%
Cộng5389718,029%

     Qua bảng 2, chúng tôi thấy, ở các tác giả hiện đại, bên cạnh thành ngữ nguyên dạng, hầu như tác giả nào cũng có sử dụng thành ngữ biến dạng. Thành ngữ biến dạng chiếm một tỷ lệ đáng kể. Trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, thành ngữ biến dạng chiếm tỷ lệ cao nhất 31,37%; trong tác phẩm Hồ Anh Thái, thành ngữ biến dạng chiếm tỷ lệ 24,63%; trong tác phẩm Chu Lai, thành ngữ biến dạng chiếm 18,29%; trong tác phẩm của Võ Thị Hảo, thành ngữ biến dạng chiếm 10,09%; trong tác phẩm của Lê Lựu, thành ngữ biến dạng chiếm 12,28%. Như vậy, thành ngữ biến dạng được sử dụng với tỷ lệ chung là 18,029%. Chẳng hạn, thành ngữ cả thèm chóng chán có nghĩa: thèm muốn rất mãnh liệt, tới mức đam mê, nhưng lại chóng chán, chóng phai nhạt. Nhưng với Hồ Anh Thái, ông viết: “Cô không phải loại như vậy. Cả thèm chóng sợ.” (Hồ Anh Thái, SBC là săn bắt chuột, 290) thì cả thèm chóng sợ lại là thành ngữ, tuy là biến thể từ thành ngữ cả thèm chóng chán, nhưng được mang ý nghĩa mới: Cô sợ việc quan hệ với chồng cô, vì tính bạo lực trong hành vi thô bạo của anh chồng. Hoặc trong ví dụ: “Thơ thì râu ông nọ một tí cằm bà kia một tẹo” (Hồ Anh Thái, SBC là săn bắt chuột, 261) thì thành ngữ râu ông nọ một tí cằm bà kia một tẹo là biến thể từ thành ngữ râu ông nọ cắm cằm bà kia. Thành ngữ râu ông nọ cắm cằm bà kia này mang nghĩa chỉ sự chắp vá, lẫn lộn một cách tùy tiện, trở nên khập khiễng, không hợp nhau [7:565]. Nhưng cách dùng thành ngữ biến dạng có tác dụng thể hiện thái độ diễu nhại, mỉa mai của người viết về “tài năng” thơ của nhân vật “ông con” có khiếu làm thơ nói lên tình cảm đối với mẹ mình, trong khi chính anh ta là nguyên nhân gây nên cái chết của mẹ để chiếm toàn bộ tài sản từ tay mẹ về tay mình.

     Trái lại, trong tác phẩm của mình, các tác giả Nam Bộ thời kì cuối XIX đầu XX lại thường sử dụng thành ngữ nguyên dạng, chỉ duy nhất có 1 thành ngữ biến dạng: chồng góc bể, vợ chơn trời. Thành ngữ này được biến dạng từ thành ngữ gốc: Góc bể chân trời.

     Ví dụ (1): Xin cậu suy đi xét lại, cuộc ở đời ai biết được lòng nhau, giờ đây mới rõ bụng cô Hai, cô tôi thương cậu biết để đâu cho hết, cô tôi một hai đòi chết, để lại cho an nơi, sống làm chi chồng góc bể, vợ chơn trời, ngày tháng mòn mỏi. (Lê Hoàng Mưu, Chuyện nàng Hà Hương,139)

     Điều này nói lên, các nhà văn Nam Bộ thời kì cuối XIX đầu XX, tuy có vận dụng thành ngữ trong lời nhân vật, nhưng phần đa là vận dụng nguyên dạng thành ngữ gốc chứ không sáng tạo như các nhà văn hiện đại. Những thành ngữ không biến dạng này chủ yếu được chia làm hai dạng: thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng và thành ngữ phi đối xứng, tuy vậy thành ngữ đối xứng chiếm số lượng lớn hơn rất nhiều so với thành ngữ phi đối xứng (thành ngữ đối xứng xuất hiện là 255/312, chiếm 81,9%, thành ngữ phi đối xứng xuất hiện là 57/312, chiếm 18,1%). Ví dụ:

     * Bên chồng tôi thiệt là giàu, ngặt chồng tôi nó kì lắm, không lo làm tổng với người ta, cứ mèo đàng chó điếm sài tiền phá của hoài. (Hồ Biểu Chánh, Tỉnh mộng, 45) -> thành ngữ đối xứng.

     * Trần Văn Sửu cảm động nên khóc như mưa. (Hồ Biểu Chánh, Cha con nghĩa nặng, 55) -> thành ngữ phi đối xứng.

     3.2. Một số thành ngữ biến đổi vỏ ngữ âm theo phương ngữ Nam Bộ

     Trong 312 thành ngữ thu thập được do các tác giả Nam Bộ sử dụng, xét trong chỉnh thể cấu tạo, chúng tôi nhận thấy có một từ nào đó của thành ngữ biến đổi vỏ ngữ âm so với thành ngữ tương đương trong tiếng toàn dân. Sự biến đổi này giúp cho người đọc nhận ra đây là thành ngữ được vận dụng trong lời ăn tiếng nói của người dân Nam Bộ, chúng thể hiện rõ đặc điểm vùng miền khá rõ, khác với vùng miền khác. Sở dĩ có sự biến âm là có hai nguyên do: nguyên nhân kỵ húy, và nguyên nhân biến âm theo cách phát âm theo phương ngữ vùng miền3. Có thể rút ra một số quy luật biến đổi vỏ ngữ âm như sau:

     [i] biến thành [a], như: sinh -> sanh (hổ phụ sanh hổ tử; sanh bất phùng thời; sanh sau đẻ muộn; sanh nghề tử nghiệp).

     [â] biến thành [ư], như: chân chưn (trống chưn trống cẳng), nhất-> nhứt (nht vợ nhì trời);

     [â] biến thành [ơ], như: nhân-> nhơn (ác nghiệt bất nhơn), chân-> chơn (góc bể chơn trời; tay lấm chơn bùn).

     [ê] biến thành [i], như: mênh-> minh (minh mông đại hải), bệnh-> bịnh (có bnh thì vái tứ phương).

     [ươ] biến thành [u], như: phượng-> phụng (mày tằm mắt phng; kề gối phng dựa màn loan; phng chạ loan chung).

     [oa] biến thành [ươ], như: hoàn -> hườn (cải tử hườn sanh; mèo lại hườn mèo).

     [a] biến thành [ê], như: hoa -> huê (mãn nguyệt khai huê; trêu huê ghẹo nguyệt; nở nhị
khai huê). Ví dụ:

     (2) – Khi cha con ông Thiên Hộ hỏi vậy thì nó lại gần mà nói rằng: “Cháu chưa rõ thì để ông thuật lại cho cháu nghe, hồi nãy ông đánh xe của ông nó bất nhơn ác nghiệt, không coi trước coi sau, rủi cán cháu, vì vậy cho nên lính tuần thành mới đem cháu lại bót này đặng cho quan thầy xét tích. (Trần Chánh Chiếu, Hoàng Tố Oanh hàm oan, 104).

     Có thể nói, những thành ngữ biến âm này giúp chúng ta nhận diện một cách rõ nhất đây là những thành ngữ được sử dụng ở phương ngữ Nam Bộ. Chúng thường được sử dụng trong lời nhân vật, giúp chúng ta nhận ra lời ăn tiếng nói của những người dân Nam Bộ trong thời kì đầu thực dân Pháp xâm chiếm lục tỉnh Nam Kì.

     3.3. Một số từ trong cấu tạo của thành ngữ được thay đổi bằng một số yếu tố từ vựng có nghĩa tương đồng so với thành ngữ toàn dân

     Bên cạnh sự biến đổi ngữ âm, một số thành ngữ lại có hiện tượng thay đổi một số yếu tố từ vựng theo phương ngữ Nam Bộ trong cấu tạo của thành ngữ (so với thành ngữ toàn dân), giúp chúng ta nhận diện đó là những thành ngữ được sử dụng ở vùng đất Nam Bộ. Số lượng những thành ngữ này không nhiều, nhưng cũng đã để lại dấu vết khá rõ về tính riêng, mang sắc thái vùng miền của thành ngữ Nam Bộ thể hiện trong sử dụng. Xét về sắc thái nghĩa, thì sự thay đổi bằng yếu tố từ vựng tương đồng này đã tạo nên sự khác biệt giữa thành ngữ trong phương ngữ Nam Bộ so với thành ngữ trong ngôn ngữ toàn dân. Đó là những thành ngữ: Đơm bông kết nụ/ nuột (từ thành ngữ toàn dân: đâm hoa kết trái); đâm heo thuốc chó (từ thành ngữ toàn dân: đâm thuê chém mướn); liên tu bất tận (từ thành ngữ toàn dân: ngày này tháng khác); ngó cao đau ót (từ thành ngữ toàn dân: nhìn cao đau ót); vàng thiệt đâu sợ lửa (từ thành ngữ toàn dân: vàng thật không sợ lửa); vai u cổ rúc (từ thành ngữ toàn dân: vai u thịt bắp; đoái công chuộc tội (từ thành ngữ toàn dân: lấy công chuộc tội); thấy xa hiểu rộng (từ thành ngữ toàn dân: nhìn xa trông rộng); tử sanh hữu mạng (từ thành ngữ toàn dân: tử sinh hữu mạng hoặc sống chết có số); ăn to xài lớn (từ thành ngữ toàn dân: ăn to nói lớn); phụng chạ với gà (từ thành ngữ toàn dân: phượng lẫn với gà); đạo vợ ngỡi chồng (từ thành ngữ toàn dân: nghĩa vợ tình chồng); khỏi tử lại hườn sanh (từ thành ngữ toàn dân: cải tử hoàn sinh); hồng nhan bạc mạng (từ thành ngữ toàn dân: hồng nhan bạc mệnh/phận) …Ví dụ:

     (3) Hà Hương rằng: “Tự thử chí tư, thiếp cũng ngỡ ôm tùng mà nhờ bóng, nay mà chàng chẳng nghĩ đạo vợ ngỡi chồng, đầu ấp tay gối, chàng lo bề chắp gánh thú thê, thiếp mới hay rằng kể từ đây, cát đằng toan tầm mưa chải gió.” Hữu nói: “Ta cũng biết phu thê là nghĩa trọng…” (Lê Hoàng Mưu, Chuyện nàng Hà Hương, 140).

     3.4. Không có thành ngữ cấu tạo từ những từ mới hoàn toàn

     Trong tư liệu thu thập được, chúng tôi thấy, thành ngữ giai đoạn cuối XIX đầu XX được sử dụng nhưng không có hiện tượng cấu tạo của chúng gồm những từ mới hoàn toàn so với thành ngữ toàn dân. Trong 312 thành ngữ thu thập được, hầu như chúng đều là thành ngữ đã quen thuộc, không khó hiểu và chúng cũng được bắt gặp trong văn bản nghệ thuật của các nhà văn hiện đại. Trong khi đó, trong tổng số 683 từ ghép mà chúng tôi thống kê được trong tác phẩm của các nhà văn giai đoạn này có khoảng 232 từ (tương đương 34%) có sự biến đổi theo những hình thức biến đổi sau: biến đổi vỏ ngữ âm của từ, đảo trật tự của các thành tố trong từ, tạo ra những từ mới có thành tố không còn được sử dụng trong tiếng Việt hiện nay.

     3.5. Nội dung ngữ nghĩa của thành ngữ thường xuất hiện thành trường đề cập đến con người, vùng đất Nam Bộ theo chủ đề mà nhà văn mô tả

     Sự khác biệt giữa cách sử dụng thành ngữ của các tác giả Nam Bộ giai đoạn cuối XIX đầu XX so với cách sử dụng thành ngữ của các nhà văn hiện đại thể hiện ở nội dung ý nghĩa của các thành ngữ xuất hiện thành trường. Các nhà văn Nam Bộ giai đoạn cuối XIX đầu XX đã vận dụng thành ngữ trong câu văn miêu tả, trong lời nhân vật, với tần số lặp lại khá lớn, đã làm nên diện mạo khái quát về nghĩa của những thành ngữ này, đó là:

     – Mô tả cuộc sống của người Nam Bộ: cực khổ, chịu đựng mưa nắng, ăn ở lúc chỗ này mai chỗ khác.

     * Ảnh dầm mưa dãi nắng cực khổ hết sức, mà cũng không ăn xài chi hết. (Hồ Biểu Chánh, Đóa hoa tàn, 44) -> 1. Chịu đựng nắng mưa, sương gió qua nhiều năm tháng; 2. Vất vả, khó nhọc, chịu đựng nhiều khó khăn trong công việc.

     * Cô gặp người chồng không có liêm sỉ, không có lương tâm làm cho cô trót bốn năm nay ăn thảm uống sầu, trêu cay nuốt đắng, không có giờ khắc nào vui vẻ. (Hồ Biểu Chánh, Kẻ làm người chịu, 151) -> Cuộc sống cay đắng.

     * Tấm thân con, trôi sông lạc chợ, ăn quán ngủ đình, con chẳng xá gì. (Hồ Biểu Chánh, Cha con nghĩa nặng, 36) -> Cuộc sống tạm bợ, nay đây mai đó.

     – Mô tả tính cách của người dân Nam Bộ: nghĩa khí, theo đuổi mục đích đến cùng.

     * Chúa tàu là người hiếu nghĩa, nên lúc nào cũng thương cha nhớ mẹ, dạ báo oán đền ơn chẳng lúc nào xao lãng (Hồ Biểu Chánh, Chúa tàu Kim Quy, 140) -> nghĩ cách đền đáp, báo trả ân nghĩa, công ơn của người giúp mình.

    * Thầy là người độ lượng lớn, chí khí cao, bởi vậy giữa phong ba thầy vẫn bền chí vững lòng. (Hồ Biểu Chánh, Tỉnh mộng, 38) -> *Có sức chịu đựng vượt qua mọi gian lao, vất vả, quyết theo đuổi đến mục đích cuối cùng.

     – Mô tả số phận bấp bênh của người phụ nữ trước và sau khi lấy chồng của người dân Nam Bộ:

     *Làm cha làm mẹ có con gái, hễ con lớn rồi thì phải lo dạy cho con nết na, mà lại còn sợ mười hai bến nước không biết bến nào trong, bến nào đục.

     (Hồ Biểu Chánh, Tỉnh mộng, 30)-> Số phận bấp bênh của người phụ nữ sau khi lấy chồng.

     – Mô tả đặc điểm vùng đất Nam Bộ: Có lúc yên bình, có khi dữ dội.

     * Đến khuya trăng mọc, anh ta lắng nghe tứ bề vắng vẻ, gió lặng sóng êm mới lẻn bước ra. (Hồ Biểu Chánh, Cha con nghĩa nặng, 14) -> mô tả cảnh bình yên.

     * Coi trâu tuy không cực, song dan nắng dầm mưa, tối ngày ngoài đồng. (Hồ Biểu Chánh, Cha con nghĩa nặng, 23) -> mô tả cảnh khắc nghiệt: nắng gắt, mưa lớn mà con người vẫn chịu đựng hàng ngày.

     Điều này khác với thành ngữ mô tả đặc điểm con người, vùng đất trong thành ngữ thuộc những vùng miền khác, cũng như thành ngữ toàn dân.

     – Mô tả sự tồn tại trong xã hội, phân biệt giàu nghèo.

     Trong truyện ngắn, tiểu thuyết giai đoạn này, các nhà văn thường đề cập đến nhân vật có hoàn cảnh gia đình, cuộc sống cá nhân khác nhau: người sinh ra trong gia đình giàu có, kẻ lại sinh ra trong gia đình nghèo đói. Tuy vậy, nhà văn thường tỏ thái độ cảm thông, trân trọng những người tuy nghèo nhưng nhân nghĩa, chê trách kẻ giàu nhưng lại cậy quyền, cậy thế chèn ép người nghèo; hoặc phê phán kẻ vì tham giàu mà sinh phụ bạc.

     * Có kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, rồi người giàu sang họ hiếp kẻ nghèo hèn như vầy. (Hồ Biểu Chánh, Ngọn cỏ gió đùa, 289)

     * Đã biết thế tình họ hay tham phú phụ bần, họ hay chơi lê quên lựu, họ làm sao mặc họ mình cứ giữ phận mình là gái đứng đắn. (Hồ Biểu Chánh, Kẻ làm người chịu, 153) -> Tham nơi giàu sang, phụ nơi nghèo khổ.

     3.6. Một số thành ngữ được sử dụng theo hình thức mô phỏng mô hình cấu trúc của thành ngữ làm cho những tổ hợp này mang tính thành ngữ

     Trong truyện ngắn và tiểu thuyết cuối thế kỉ XIX đầu XX, một số nhà văn đã sử dụng những tổ hợp từ mô phỏng mô hình cấu trúc của thành ngữ làm cho những tổ hợp này mang tính thành ngữ. Các tổ hợp từ mang tính thành ngữ này được sử dụng cả trong ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật cụ thể. Trong những tác giả được chọn để khảo sát thì Hồ Biểu Chánh có 42 thành ngữ mới. Có thể dẫn ra một số trường hợp như: nhà tốt mâm đầy, nhớ mây thương gió, gãy nhánh lìa hoa, giấy đỏ chữ đen, cháy da phỏng trán, ra tư ra riêng, cầm trâu đạp lúa, hôi cơm tanh cá, lộn hồn lộn vía, kham giàu chê nghèo, v.v. Các đơn vị thành ngữ mới xuất hiện trong câu văn truyện ngắn, tiểu thuyết có tác dụng tạo nên cách nói lạ tai nhưng có âm hưởng, tiết tấu và tính hàm súc cho lời văn trần thuật của tác giả và ngôn ngữ hội thoại của nhân vật. Chẳng hạn:

     * Tôi cũng là người như thiên hạ, vì cớ nào thiên hạ ai cũng ăn no ngủ ấm, nhà tốt mâm đầy, còn tôi không một phút giây sung sướng (HBC, Ngọn cỏ gió đùa, 35).

     Trong câu văn trên, ngoài thành ngữ cải biến ăn no ngủ ấm (từ: ăn no ngủ kĩ) còn có một tổ hợp có tính thành ngữ: nhà tốt mâm đầy. Tổ hợp này mô phỏng một kiểu cấu trúc của thành ngữ tiếng Việt, chẳng hạn: nhà cao cửa rộng. Kiểu cấu trúc này gồm bốn thành tố chia làm hai vế; mỗi vế là một kết cấu danh từ – tính từ. Giữa các vế có thể hiệp vần, có thể không. Về ý nghĩa, tổ hợp mang tính thành ngữ nhà tốt mâm đầy giúp người đọc hình dung nhiều người trong thiên hạ có cuộc sống sung túc, đầy đủ, không phải lo lắng. Hoặc trong ví dụ sau:

     * Hải Yến mừng rỡ hết sức, trong bụng đã chắc rằng trong năm ba ngày nữa sẽ giao duyên với Ánh Nguyệt sắt cầm hoà hiệp, loan phượng đồng sàng, chẳng còn ngày ngóng đêm trông, hết nỗi nhớ mây thương gió. (Hồ Biểu Chánh, Ngọn cỏ gió đùa, 129].

     Ở ví dụ này, Hồ Biểu Chánh dùng liên tiếp ba thành ngữ trong một câu văn: sắt cầm hoà hiệp, loan phượng đồng sàng, ngày ngóng đêm trông và một tổ hợp có tính thành ngữ nhớ mây thương gió. Tổ hợp nhớ mây thương gió được cấu tạo theo mô hình bốn thành tố gồm hai vế động từ – danh từ, kiểu như thành ngữ ngậm đắng nuốt cay. Trong câu văn trên, đơn vị mới nhớ mây thương gió có nghĩa là: sự mong nhớ, thương yêu mãnh liệt của những người đang yêu. Nhà văn tạo ra đơn vị mới này để phối nghĩa với thành ngữ ngày ngóng đêm mong xuất hiện trước nó nhằm tạo sự cân đối với hai thành ngữ gần nghĩa sắt cầm hoà hiệp và loan phượng đồng sang nói về hạnh phúc lứa đôi của hai nhân vật Hải Yến và Ánh Nguyệt.

4. Kết luận

     Qua tìm hiểu việc sử dụng thành ngữ của các nhà văn Nam Bộ giai đoạn cuối XIX đầu XX, chúng tôi rút ra một số kết luận:

     – Thành ngữ tồn tại nguyên khối như một đơn vị ngôn ngữ, tương đương từ, từ trước đến nay, đã được nghiên cứu khá nhiều nhưng khi tham gia hành chức trong tác phẩm văn chương, thông qua ngôn ngữ nhân vật, do nhà văn tái tạo, lại mang những đặc trưng riêng. Chúng được vận dụng phải đúng với ngôn ngữ của từng nhân vật, thể hiện vốn sống phong phú, tài năng sáng tạo, quan niệm nghệ thuật của nhà văn. Việc đi sâu tìm hiểu vai trò, tác dụng của thành ngữ trong sử dụng đã được chú ý tìm hiểu nhưng vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu nhiều hơn, ở một phạm vi lớn hơn.

     – Về cấu tạo, cách sử dụng thành ngữ giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu XX của các nhà văn Nam Bộ so với các nhà văn hiện nay không khác nhau, chủ yếu vẫn chia ra hai nhóm, thành ngữ đối xứng và phi đối xứng.

     – Về số lượng, thành ngữ nguyên dạng vẫn được sử dụng với số lượng và tần số lớn ở cả hai thời kì, thời kì cuối XIX đầu XX và hiện nay. Tuy nhiên, việc sử dụng thành ngữ ở hai thời kì cũng có sự khác nhau: i) Các tác giả giai đoạn cuối XIX đầu XX ít sử dụng thành ngữ biến thể mà thường sử dụng thành ngữ nguyên dạng. Trái lại, các nhà văn hiện đại lại sử dụng thành ngữ biến thể với số lượng và tần số cao hơn; ii) Ở các tác giả giai đoạn cuối XIX đầu XX, số lượng lớn các thành ngữ không biến dạng xuất hiện dưới 2 khả năng: biến đổi vỏ ngữ âm của thành ngữ gốc (ngôn ngữ toàn dân) và biến đổi một số yếu tố từ vựng so với thành ngữ gốc (ngôn ngữ toàn dân). Hiện tượng xuất hiện thành ngữ mới, khác hoàn toàn với thành ngữ gốc không xuất hiện trong tư liệu; iii) Ở các tác giả giai đoạn cuối XIX đầu XX, nội dung các thành ngữ xuất hiện thành trường nghĩa phản ánh đặc điểm con người, tính cách, vùng đất thiên nhiên Nam Bộ.

__________
1. Bài nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED).

2. Chúng tôi sử dụng thuật ngữ thành ngữ nguyên dạng (thành ngữ gốc) khi thành ngữ đứng độc lập, giống như từ xét trong từ điển. Khi thành ngữ hành chức, chúng tôi gọi là thành ngữ “biến dạng” theo cách dùng của tác giả Hoàng Văn Hành, ông gọi là “biến thể”. GS. Nguyễn Văn Khang đề nghị gọi là điển dạng và hiện dạng (trao đổi riêng).

3. Theo tác giả Hoàng Trọng Canh: “Trong các phương ngữ từ Bình Trị Thiên trở vào Nam Bộ có một bộ phận từ vựng quen dùng trong phương ngữ Nghệ Tĩnh, phải chăng đó là sự phản ánh đặc điểm lan truyền ngôn ngữ mà nguyên nhân của nó là do di chuyển dân cư từ Thanh-Nghệ Tĩnh vào phía Nam trong lịch sử”. [Hoàng Trọng Canh, Từ địa phương Nghệ Tĩnh về một khía cạnh ngôn ngữ và văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, 2009: 25].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     [1] Nguyễn Như Ý (chủ biên), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1996.

     [2] Nguyễn Lực, Lương Văn Đang, Từ điển thành ngữ tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993.

     [3] Hoàng Văn Hành, Kể chuyện thành ngữ học tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004.

     [4] Diệp Quang Ban, Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học (sơ thảo), NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010.

     [5] Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1996.

     [6] Hoàng Văn Hành, Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002.

     [7] Nguyễn Đức Tồn, Đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2008.

Nguồn: Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài,
Tập 30, Số 4 (2014) 10-18

THẠC SĨ TRƯƠNG HOÀNG LONG SƯU TẦM VÀ GIỚI THIỆU

VĂN HOÁ GIAO TIẾP của NGƯỜI NAM BỘ qua TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH – MỘT GÓC NHÌN                                                             ...