Thứ Bảy, 10 tháng 7, 2021

ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NAM BỘ ĐẦU THẾ KỈ XX QUA TIỂU THUYẾT CON NHÀ GIÀU CỦA HỒ BIỂU CHÁNH

 



A.MỞ ĐẦU

Vào những năm đầu thế kỷ XX, văn xuôi quốc ngữ bắt đầu xuất hiện, phát triển ở Nam Bộ và dần dần trở thành một bộ phận máu thịt của văn học Việt Nam. Có thể nói, ở giai đoạn này, Hồ Biểu Chánh chính là nhà văn tiêu biểu nhất. Bằng sự nghiệp trứ tác đồ sộ của mình, Hồ Biểu Chánh đã chứng minh một cách hùng hồn sự đúng đắn của chủ trương cách tân văn chương Việt; bước đầu đưa văn chương Việt Nam chuyển từ phạm trù văn học trung đại sang văn học hiện đại.

B.NỘI DUNG

1.Văn xuôi Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX

                   1.1. Vài nét về Nam Bộ đầu thế kỷ XX

Sau Hòa ước 1884, Nam kỳ trở thành xứ thuộc Pháp. Trước những chính sách “khai hóa” của thực dân Pháp, xã hội Nam kỳ biến đổi sâu sắc. Sự phổ biến của chữ quốc ngữ đã góp phần thúc đẩy các ngành dịch thuật, báo chí, in ấn và xuất bản phát triển. Tất cả những yếu tố này đã làm nảy sinh một lực lượng bạn đọc mới, đông đảo với nhu cầu thẩm mĩ khác trước. Để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của lớp công chúng mới, một đội ngũ nhà văn mới ra đời góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền văn học dân tộc.

1.2. Sự phát triển của văn xuôi Nam Bộ đầu thế kỷ XX

Chặng đường đầu tiên của văn xuôi quốc ngữ có sự góp mặt của các nhà văn theo đạo Ki Tô. Tiểu thuyết đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ chính là Thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản. Sau khi Thầy Lazarô Phiền ra đời cho đến những năm 20 của thế kỷ XX là giai đoạn bắt đầu những hướng thử nghiệm mới. Giai đoạn từ những năm 20 đến những năm 30 của thế kỷ XX là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của văn xuôi quốc ngữ.

Văn xuôi quốc ngữ ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX ra đời đã đặt dấu ấn khá đậm nét về văn hoá vùng Nam Bộ. Các nhà văn Nam Bộ như Trần Quang Nghiệp, Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, Bửu Đình, Thái Bình Dương, Phú Đức,... đã phản ánh chân thực những giá trị rất riêng của cộng đồng dân cư Nam Bộ. Cuối thập niên 1930 sang thập niên 1940, văn xuôi Nam Bộ đã hội đủ các tiêu chí về nội dung và nghệ thuật của thể loại văn xuôi hiện đại.

2. Đặc điểm của văn xuôi  Nam bộ đầu thế kỷ XX

Về mặt nội dung:  Văn xuôi Nam Bộ ban đầu là những bài viết theo lối chuyện đời xưa, chuyện kể dân gian. Về sau là những câu chuyện đời thường có hành động của các nhân vật, các tình tiết của sự kiện giống như trong tiểu thuyết, được trình bày trong những bài ngắn gọn. Có truyện các tình tiết được trình bày một cách hấp dẫn để đi đến một kết thúc bất ngờ (Con của ai?). Có truyện kể việc rất bình thường có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, thời nào, được trình bày dưới nhan đề (Thời sự tiểu thuyết). Có truyện tình tiết phong phú như tiểu thuyết, được trình bày trong một bài khá dài (Dưới cội đào). Nói chung, các truyện ngắn đáp ứng yêu cầu của đa số độc giả đương thời hơn là thể hiện ảnh hưởng của văn hoá Pháp. Mục đích của người viết là giúp người đọc “mua vui” và suy ngẫm về nhân tình thế thái.

Nội dung trong văn xuôi Nam Bộ không vay mượn của ai mà lấy từ cuộc sống thực tại, tập trung phản ánh vấn đề đạo đức nhưng “không ra sức ghì níu cho ngôi nhà đang ọp ẹp của đạo đức tam cương ngũ thường”, tập trung chống hủ tục, chống cờ bạc rựu chè, chống mê tín dị đoan, chống ghen tuông bạc ác, tích cực vận đông Minh tân...Các truyện đã phản ánh được những nhố nhăng của xã hội buổi giao thời, bao giá trị xã hội đang dần bị xáo động bởi “đời này là đời kim tiền, mỗi món gì cũng phải có tiền mới là xong” (Đồ hèn mạt). Còn truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy khá mới, truyện có thể kể về cả một cuộc đời, hay một đoạn đời, một sự kiện hay một “ chốc lát” trong cuộc sống nhân vật. Tác giả thường hướng tới khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Xây dựng nhân vật là một hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc là trạng thái tồn tại của con người.

  Phương diện nghệ thuật:  Cốt truyện và kết cấu truyện ngắn Nam bộ đầu thế kỷ XX  với lối kết thúc phi truyền thống, không theo cấu trúc “tam đoạn có hậu” như các truyện Nôm truyền thống. Cốt truyện giống như màn hoạt cảnh bi hài đầy tính thời sự, các chi tiết đều hết sức bất ngờ, mới lạ.

Nghệ thuật sử dụng trong văn xuôi Nam bộ đầu thế kỷ XX ta thấy ở truyện ngắn Nam bộ các biện pháp tu từ cũng đã được sử dụng một cách có nghệ thuật để miêu tả, khắc hoạ những nét độc đáo của nhân vật. Cách dẫn truyện cũng có nhiều sáng tạo, kết cấu chặt chẽ, kịch tính của truyện tăng dần, truyện càng ngắn kịch tính càng cao. Đặc biệt lối kết bỏ lửng hoặc bất ngờ đã gây được cảm giác thú vị cho người đọc, đồng thời tạo ra chiều sâu cho tác phẩm.

            Về nghệ thuật ngôn ngữ trong truyện ngắn Nam Bộ đậm chất đời thường. Điểm nổi bật thể hiện ở ngôn ngữ nôm na, mộc mạc phù hợp với cách nói của người dân Nam Bộ, sử dụng nhiều từ địa phương, ngôn ngữ thấm đượm màu sắc chân quê, dân dã.

3.Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi quốc ngữ giai đoạn đầu thế kỷ XX

Sự nghiệp văn chương của Hồ Biểu Chánh là những đóng góp rất quan trọng cho văn học dân tộc. Cả cuộc đời cầm bút, Hồ Biểu Chánh luôn luôn chủ động tìm tòi cho mình một hướng đi riêng, một dấu ấn riêng để khẳng định tên tuổi trên văn đàn. Với 64 tiểu thuyết, ông đã có những đóng góp to lớn vào sự hình thành và phát triển thể loại tiểu thuyết Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX.

Mặc dù vẫn còn những bàn luận chưa thống nhất về những  lầm lạc trong cuộc đời chính trị của Hồ Biểu Chánh nhưng qua việc tìm hiểu sự nghiệp văn chương của ông hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng: “Hồ Biểu Chánh vẫn là tác gia giữ địa vị quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Ông có một vị thế không ai trong số các nhà văn đầu thế kỷ làm được: người đứng chủ một dòng tiểu thuyết (phong tục – đạo lý) ở vùng đất Nam Bộ”.

4. ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NAM BỘ ĐẦU THẾ KỈ XX QUA TIỄU THUYẾT CON NHÀ GIÀU CỦA HỒ BIỂU CHÁNH  NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG.

Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã cắm rễ một cách sâu sắc vào truyền thống văn học và văn hóa Nam Bộ. Có thể nói, Hồ Biểu Chánh đã gắn bó cả cuộc đời mình với vùng đất Nam Bộ. Ông đi qua rất nhiều nơi, quan sát và thấu hiểu đời sống cũng như những tính cách đặc trưng của người dân Nam Bộ. Bên cạnh đó, ông cũng nhận ra những nét độc đáo trong phong tục tập quán của những con người chân chất nơi đây. Tất cả những điều ấy được ông phản ánh chân thực trong các tiểu thuyết của mình. Hay nói cách khác, hiện lên trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh chính là chân dung cuộc sống Nam Bộ - những giá trị văn hóa tiêu biểu cho vùng đất nơi đây.

4.1        Hệ đề tài-chủ đề trong trong tiểu thuyết Con nhà giàu

Với cách hiểu đề tài-chủ đề như trên, chúng ta có thể thấy tiểu thuyết là thể loại sử dụng rất nhiều đề tài, chủ đề. Trong truyện thơ, tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam, tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, các nhà văn thường tập trung vào các đề tài lớn là đề tài lịch sử dân tộc, đề tài thế sự, đề tài gia đình... với nhiều chủ đề khác nhau. Là nhà văn đi sau, Hồ Biểu Chánh đã kế thừa những đề tài nói trên. Sự cách tân của ông là ở việc chọn lựa đề tài phù hợp với điều kiện cụ thể lúc bấy giờ. Những năm đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến với nhiều thay đổi trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hơn nữa, văn hóa phương Tây, nhất là văn hóa Pháp đã ảnh hưởng sâu đậm đến cách cảm, cách nghĩ, cách tư duy của nhà văn, đòi hỏi nhà văn phải viết tiểu thuyết để biểu dương những mặt tích cực, phê phán những mặt tiêu cực trong cuộc sống, đồng thời để thoả mãn nhu cầu, thị hiếu của lớp công chúng mới.

                         4.1.1.Đề tài thế sự

Đây đề tài được nhà văn quan tâm nhiều trong quá trình sáng tác. Vốn một quan chức của chính quyền thực dân, Hồ Biểu Chánh có điều kiện đi nhiều nơi, chứng kiến nhiều chuyện xảy ra trong xã hội đương thời. Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, Hồ Biểu Chánh đã hiểu được những khó khăn, thiếu thốn của người dân Nam Bộ. Điều đó giúp cho nhà văn có một vốn sống phong phú nên phản ánh hiện thực cuộc sống hết sức đa dạng, cụ thể. Ông không những viết về thành thị còn đi sâu vào cuộc sống ở nông thôn; không chỉ phản ánh cuộc sống của tầng lớp trên trong xã hội còn miêu tả cuộc sống của những người dạng người giàu có trong  xã hội phơi bày thói ăn chơi của giới công tử con nhà giàu: Lớn lên trong gia đình giàu có, ăn chơi là lẽ đương nhiên, không ăn chơi không phải là công tử đó là nhân vật công tử Trần Thượng Tứ trong tiểu thuyết Con nhà giàu.

                       4.1.2.Đề tài gia đình

 

Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không chỉ bàn đến hiện thực xã hội còn khai thác những đề tài thuộc phạm vi đời sống gia đình. Có thể khẳng định, đề tài gia đình không phải đề tài mới được đưa vào văn học. Xưa, ở Trung Quốc đã có một số tiểu thuyết viết về đề tài này như Hồng lâu mộng, Kim Bình MaiCái mới mà Hồ Biểu Chánh được chính ở những vấn đề nhà văn đặt ra. Xã hội thực dân nửa phong kiến do đế quốc xây nên đầy rẫy mọi thứ sa đọa, lố lăng. Rõ rệt nhất sự tấn công của thứ tự do sản, của cá nhân chủ nghĩa, của thứ sinh hoạt đồi trụy vào gia đình phong kiến, vào những quan hệ vợ chồng, anh em, bạn bè... Nhà văn đề cập đến sự xung đột trong quan niệm, tư tưởng của lớp người cũ lớp người mới.Trong tiểu thuyết Con nhà giàu ông phê phán những hiện tượng tiêu cực cần phải dẹp bỏ như tranh giành tài sản giữa con cái với nhau(Trần Thượng Tứ -Nguyễn Minh Đường), giữa vợ cả với vợ hai.( Lý Thị Nho)

Như vậy, với những đề tài-chủ đề nói trên, các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh tựa như một cuốn phim xã hội Nam Kỳ dưới ách thống trị của thực dân Pháp, một cuốn từ điển bách khoa ghi chép vô số những câu chuyện có thật mà thế hệ sau cần biết. Đúng như Thanh Lãng đã nhận xét: “Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là một bức truyền thần ghi lại bộ mặt của một thời.

4.2.Cảm hứng sáng tạo trong tiểu thuyết Con nhà giàu

Cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật một tình cảm mạnh mẽ mang tính tưởng. trạng thái tâm then chốt bao trùm trong sáng tác của nhà văn (Phương Lựu). Cảm hứng trong tác phẩm văn học một mặt niềm say khẳng định chân lý, lý tưởng nhà văn theo đuổi, mặt khác, sự phủ định những hiện tượng tiêu cực, sự giả dối. Nó được cụ thể hóa ở thái độ của nhà văn đồng tình, ngợi ca những nhân vật chính diện hay phê phán, tố cáo những nhân vật phản diện, những hiện tượng xấu xa. Cảm hứng của tác phẩm không phải thể hiện ở một vài nhận xét, một đôi lời bình luận đâu đó chủ yếu được bộc lộ từ hệ thống hình tượng, từ hệ thống ngôn từ, từ các chi  tiết, tình tiết, các nhân vật tính cách. Hồ Biểu Chánh khi viết tiểu thuyết đã có niềm say mê riêng, có cảm hứng sáng tạo riêng. Cảm hứng ấy kế thừa truyền thống cũ và được cách tân, sáng tạo ra trong điều kiện cụ thể của lịch sử dân tộc đầu thế kỷ XX.

4.2.1.Cảm hứng hiện thực

Cảm hứng hiện thực là nội dung được Hồ Biểu Chánh phản ánh trong tác phẩm.Trong một số tiểu thuyết ông đã ghi lại hậu quả cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân Nam Bộ. Hồ Biểu Chánh nêu lên những cảnh tượng bất công cũng như tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Trong tác phẩm Con nhà giàu, Hồ Biểu Chánh cho thấy cuộc sống cơ hàn của người dân nghèo “già cả mà còn lụm khụm đi làm, con nít mà phải trần truồng không có áo quần, người trải nắng dầm mưa mà không đủ cơm nuôi vợ con, kẻ chai tay nám mặt mà không dám than phiền mệt nhọc.

Đối lập với cảnh sống bần hàn của người nghèo, là sự dư dật thừa thãi của những nhà giàu. Thượng Tứ (Con nhà giàu) đã nói lên sự đối lập đó: “Người giàu ở không ăn chơi sung sướng mà lúa thóc bạc tiền có thêm hoài, không biết làm giống gì cho hết. Còn người nghèo làm từ đầu năm chí cuối, chai tay nám mặt, mà ăn ở cực khổ, áo quần lang thang, già cả lụm cụm cũng chưa được nghỉ ngơi, con nít lớn lên thì không được đi học

Cảm hứng hiện thực không chỉ giúp Hồ Biểu Chánh phản ánh hiện thực Nam Bộ trong những điều kiện kinh tế cụ thể của nó mà còn giúp nhà văn lên tiếng tố cáo những tệ nạn hội, những mặt tiêu cực trong đời sống hội quan hệ gia đình ở Nam Bộ nhiều thập niên đầu thế kỷ XX. Dưới ngòi bút sắc sảo của mình, Hồ Biểu Chánh đã phê phán một số hiện tượng xấu xa trong xã hội như nạn mua danh bán tước. Ai muốn thăng chức, muốn làm ông này bà nọ để lên mặt với đời thì chỉ cần bỏ tiền ra mua là được,  Ông giáo Chuột (Con nhà giàu), một kẻ đã mười mấy năm chuyên nghề cho vay, đặt nợ thì thủ đoạn tinh vi hơn: “Ông nhử nhử đưa cho cậu chừng mười ngàn đồng bạc thì ông lấy ruộng đất của cậu hết. Ông cứ việc tính lời theo bạc mười bốn” .

Hồ Biểu Chánh cũng hết sức bất bình với kiểu cho vay của bọn chệt khách, Chà và.Trong tiểu thuyết Con nhà giàu Thượng Tứ vay tiền Chà và một năm phải trả, song anh ta có tiền rồi nên mới vay được vài tháng thì đem đến trả. Tào kê thấy anh ta là người tử tế, nên không cho trả, muốn để hết một năm đặng ăn tiền lời.  

Hồ Biểu Chánh đã chỉ ra thói ăn chơi hưởng lạc của những kẻ lắm tiền trong khi biết bao gia đình không có cơm ăn áo mặc. Ta có thể thấy được vấn đề này thông qua nhân vật Cậu Thượng Tứ  người ăn chơi xa hoa, đàng điếm, bỏ mặc vợ con.

Hồ Biểu Chánh còn lên án tiêu cực trong gia đình tranh giành tài sản : Trong tiểu tuyết Con nhà giàu cho thấy rõ nôi dung này thông qua tình tiết khi nhận ra sức khỏe của chồng có phần yếu kém, bà đã thuyết phục ông làm di chúc để tranh sau này có việc anh em trong nhà tranh giành gia sản, làm mất uy tín dòng họ. Ông bà Kế Hiền Toại liền cậy nhờ Hương Chánh Dung làm di chúc. Hương Chánh Dung từ lúc gặp Lý Thị Nho đã mê mẩn sắc đẹp của bà. Còn Thị Nho thì liền khôn lanh nghĩ ngay đến việc ưỡm ờ gạ gẫm để Hương Chánh Dung viết di chúc có lợi cho mình và con trai.

Như vậy, với cảm hứng hiện thực, Hồ Biểu Chánh đã phản ánh hiện thực cuộc sống hết sức chân thật, đa dạng. Xã hội đó còn nhiều cảnh “thiệt  giả giả thiệt”, lắm người mải mê chạy theo “tiền bạc bạc tiền”, con người phải chịu bao “cay đắng mùi đời”, thân phận người nông dân nghèo như “ngọn cỏ gió đùa”. Văn hóa phương Tây du nhập vào Việt Nam đã làm thay đổi các giá trị truyền thống, làm xuất hiện những cảnh chướng tai gai mắt.

4.3.Đặc điểm, tính cách nhân vật tiểu thuyết Con nhà giàu

                        4.3.1 Trọng tình

         Một khía cạnh khác của tình cảm gia đình cũng được Hồ Biểu Chánh thể hiện là tình nghĩa vợ chồng. Nếu vợ chồng thực sự thương yêu thì dù có  xa cách bao nhiêu lâu thì tình cảm đó vẫn không thay đổi. Sự thủy chung,  kiên trinh là phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay. Những người vợ dù chồng có mắc lỗi lầm nhưng biết ăn năn hối cải thì cũng sẵn sàng tha thứ nhân vật Vợ chồng Thượng Tứ (Con nhà giàu) là một ví dụ điển hình như vậy. Hồ Biểu Chánh cũng có những trang văn miêu tả tình nghĩa giữa con người với con người khá chân thật , Thượng Tứ trong truyện Con nhà giàu là những ông chủ giàu có nhưng đối xử công bằng, quan tâm đến kẻ ăn người ở trong nhà, người làm công trong làng, trong xóm, thi ân, bênh vực họ trong khó khăn, hoạn nạn mà không cần phải đền đáp.

 

4.3.2.Coi trọng đồng tiền

Trong một số tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh xây dựng những tính cách nhân vật bị chi phối bởi một dục vọng duy nhất là lòng tham tiền. Họ tìm mọi cách, bất chấp các thủ đoạn miễn sao đạt được mục đích là có thật nhiều tiền.Thói ham tiền của các nhân vật còn được nhà văn miêu tả qua việc hôn nhân cưới hỏi. Các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đã phơi bày cho độc giả thấy động cơ, mục đích chính của các cuộc hôn nhân là vì tiền, phải “môn đăng hộ đối” Kế Hiền (Con nhà giàu) cũng có chung quan điểm như vậy. Khi tìm vợ cho con trai bà thì mục đích phải lựa chỗ cho xứng đáng mà cưới vợ. Má nghe nói ông Hội đồng Thưởng giàu có hơn mình nhiều lắm, ông không có con trai, có hai đứa con gái, đứa lớn gả chồng rồi, nó về ở theo bên chồng nó, còn đứa nhỏ, vợ chồng ông cưng lắm, tính gả bắt rể, nếu con sa vào đó con no lắm.

Có thể thấy, tính tham tiền của con người là một nét rất “thời đại” mà Hồ Biểu Chánh đã miêu tả được. Loại nhân vật này ít gặp trong văn học truyền thống Việt Nam nhưng lại xuất hiện nhiều trong văn học phương Tây, trước mới có hạnh phúc mà cái quan trọng là tình nghĩa, sự quan tâm lẫn nhau .

 

5. ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NAM BỘ ĐẦU THẾ KỈ XX QUA TIỄU THUYẾT CON NHÀ GIÀU CỦA HỒ BIỂU CHÁNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT.

5.1       Cốt truyện theo mô hình truyện kể truyền thống

Trong truyện kể dân gian, cốt truyện và nhân vật tuy khác nhau nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau. Kế thừa đặc điểm này, trong đại đa số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh nhân vật luôn được đề cao và giữ vai trò trung tâm. Ở đó tính cách và tâm lý nhân vật được thể hiện chủ yếu qua hành động, ngôn ngữ. Một trong những đặc điểm nổi bật khi xây dựng cốt truyện của truyện kể dân gian là cấu trúc theo mô hình kết thúc có hậu. Xuất phát với mục đích viết tiểu thuyết là nhằm “lần lần dắt quần chúng  về đường chính đại quang minh”, cốt truyện trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh cũng được xây dựng trên mô hình kết thúc có hậu ấy.Cũng như nhiều truyện kể dân gian của Việt Nam, phần lớn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh được kể theo trục tuyến tính của thời gian.Điều này ta thấy rõ trong Con nhà giàu lúc thông qua nhân vật Thượng Tứ lớn lên trong gia đình giàu có, ăn chơi là lẽ đương nhiên, không ăn chơi không phải là công tử. Nhân vật công tử Trần Thượng Tứ sau khi vấp ngã quá nhiều trong thói hoang đàng đã thay đổi tính tình từ khi mẹ mất, đã tiếp xúc với giới tá điền và đã nhận ra sự cơ cực của con nhà nghèo. Thượng Tứ đã cứu giúp đỡ người nghèo khó và coi đó là một niềm hạnh phúc.

Tóm lại, cùng với những đóng góp mới mẻ trong việc chú trọng đến những tình tiết có tính bước ngoặt của tác phẩm, các câu chuyện được dẫn dắt đến gần với đời sống thực tại; khuynh hướng đạo lý được thể hiện qua kết thúc có hậu và diễn biến câu chuyện được thuật kể theo trình tự thời gian đã khiến cho tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vừa mang hơi hướng hiện đại vừa cắm rễ một cách sâu sắc vào truyền thống văn học và văn hóa Nam Bộ, phù hợp với phong tục tập quán của người dân nơi đây.

 5.2.Kết cấu trong tiểu thuyết Con nhà giàu

Theo Nguyễn Xuân Nam, kết cấu toàn bộ tổ chức phức tạp bao gồm mọi mối quan hệ giữa chỉnh thể và bộ phận, giữa bộ phận và bộ phận trong một tác phẩm văn học. Bất kỳ tác phẩm nào cũng có kết cấu; kết cấu một trong những nhân tố trọng yếu biểu hiện giá trị nghệ thuật của tác phẩm

5.2.1.Kết cấu theo trình tự thời gian

Loại kết cấu này xuất hiện nhiều ở những tác phẩm bố cục theo hình thức chương hồi. Với dạng kết cấu này, thời gian là cái trục chính để dẫn dắt câu chuyện, xâu chuỗi các sự kiện, các hành động của nhân vật. Đây là một biện pháp kết cấu cổ điển mà chúng ta thường gặp trong những truyện kể dân gian, truyện thơ và tiểu thuyết Việt Nam viết bằng chữ Hán như Hoàng Việt Long hưng chí, Hoàng Lê nhất thống chí, Việt Lam xuân thu Với lối kết cấu theo thời gian, trình tự thời gian được giữ nguyên, chuyện gì xảy ra trước nói trước, chuyện gì xảy ra sau nói sau, không theo mạch tâm tưởng của nhân vật. Mỗi chương, đoạn, hồi của tác phẩm gắn với một hay nhiều sự kiện. Liên kết các chương, hồi, đoạn thành một mắt xích tạo ra sự vận động của nội dung cốt truyện. … Sử dụng lối kết cấu này, các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thường kết thúc có hậu. Điều này ta thấy rõ trong Con nhà giàu lúc thông qua nhân vật Thượng Tứ lớn lên trong gia đình giàu có, ăn chơi là lẽ đương nhiên, không ăn chơi không phải là công tử. Trái ngược với nhân vật công tử Trần Thượng Tứ, công tử Nguyễn Minh Đường lớn lên trong sự thụ động, răm rắp nghe lời mẹ, xem việc Điền chủ mâu thuẫn với tá điền là chuyện đương nhiên, cuộc đời là phải như vậy.Tứ thì năng động, làm theo ý của mình, còn Đường thì thụ động, tuyệt đối nghe lời mẹ. Cả hai cùng một vài nhân vật công tử khác đã vẽ lại bối cảnh đồng quê của Nam Bộ trên một thế kỷ về trước.

5.2.1.Kết cấu theo hai tuyến nhân vật

Trong các tiểu thuyết của mình, Hồ Biểu Chánh thường phân chia nhân vật thành hai tuyến đối lập nhau: chính-tà, thiện-ác, có nhân, có nghĩa-bất nhân, bất nghĩa… Những người có nhân, có nghĩa thường là con nhà  nghèo. Họ đã trải qua trăm đắng ngàn cay, số phận linh đinh để rồi cuối cùng được hưởng hạnh phúc, no cơm, ấm áo. Hạng người bất nhân, bất nghĩa thường là “con nhà giàu”. Chúng là những kẻ tàn ác, dâm giật, tham tiền, ham danh lợi, đểu cáng … và cuối cùng đều bị trừng phạt. Cái nhìn quả báo như thế giúp Hồ Biểu Chánh viết được những tác phẩm đầy xúc động, cụ thể về sự sa đọa và tội ác của bọn địa chủ, tư sản, về những khó khăn, khốn khổ của người nông dân chân lấm tay bùn và nỗi phẫn uất của họ.

     5.2.2.Thể hiện tính cách nhân vật bằng miêu tả diễn biến tâm lý

Miêu tả tâm lý là phương thức quan trọng nhất để chiếm lĩnh con người bằng văn học nghệ thuật. L. Tolstoy cho rằng mục đích chính của nghệ thuật- nếu như có nghệ thuật và nó có mục đích-là để làm rõ và nói hết được sự thật về tâm hồn con người, nói hết được những bí mật mà không thể nói hết bằng những lời lẽ giản đơn. Nghệ thuật là cái kính hiển vi dẫn dắt nghệ sĩ đến những bí mật của tâm hồn mình và đưa những bí mật này ra cho tất cả mọi người biết. Để làm được điều đó, nhà văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống và conngười, nắm bắt được những biểu hiện và diễn biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên trong của nhân vật. Học tập các nhà văn đi trước,  Hồ Biểu Chánh cũng dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm như một phương tiện hữu hiệu để phác họa tính cách nhân vật, trong tác phẩm Con nhà giàu là minh chứng , Thượng Tứ tuy đã có vợ nhưng có thú trăng hoa nên bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ vợ, bỏ con đi tìm niền hoan lạc nơi phường bán phấn buôn hương. Đến khi nhận rõ sự trớ trêu của nhân tình thế thái, sự bạc bẽo của người đời thì hối hận và quay về với gia đình, hay nhân vật Lý Thị Nho là một người phụ nữ mới chỉ 18 tuổi. Người phụ nữ trẻ tuổi ấy xuất thân từ gia đình có ăn có mặc nhưng gặp vận hạn mà sa sút, nay đồng ý lấy ông Kế Hiền Toại mong ấm thân. Lý Thị Nho không hề đỏng đảnh mà rất khéo léo chiều chuộng chồng, đối đãi tử tế với con chồng.

Tóm lại, thủ pháp nghệ thuật khắc họa chân dung và tính cách nhân vật qua tiểu sử, ngoại hình, ngôn ngữ, hành động chính là sự kế thừa những thành tựu trong văn chương truyền thống của Hồ Biểu Chánh. Tuy nhiên, nhà văn cũng có những cách tân của riêng mình để các nhân vật trở nên gần với hiện thực cuộc sống, phản ánh đúng những nguyên mẫu của hiện thực cuộc sống ở Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX.

5.3.Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Con nhà giàu

Đến với tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, độc giả gặp rất nhiều từ ngữ được nhà văn sử dụng phù hợp, đắc địa, phản ánh được đặc trưng của một vùng đất ở cực Nam của Tổ quốc. Đó là những từ chỉ cây cối, sản vật gắn với một vùng sông nước mênh mông: mắm, đước, bần, tràm, dừa nước, bông súng, cây còng, cây tra, đậu hũ, đậu phộng, bánh ú, bông lường, bông lồng đèn, bông vông, cá chẽm, cá hố, cá ngác… Đó là các từ ngữ chỉ trạng thái, tính chất, chẳng hạn: buồn nghiến, nằm dàu dàu, ngồi chồm hỗm, đứng xớ rớ, đi lầm lũi, nói mờ ơ, ngủ nhầu, ngó chằng chằng, nhẹ hều, buồn hiu, lừ lừ, im re, đứng dụ dự một hồi, ngồi ngó cững, nước mắt nước mũi choàm ngoàm, ngồi chim bỉm, mừng quýnh, chết điếng, buồn so, tròn vìn, nín khe, mặt chừ bự, ngó chừng xăn văn xéo véo, nằm không cục cựa, râu lún thún, nhảy xoi xói…

Hồ Biểu Chánh cũng có những cách diễn đạt hết sức Nam Bộ, với những tình thái từ: nghen, hen, vậy ta, hôn, há, chớ… Với những cách xưng hô: qua, má, tía, thẩy, cổ, cỏn, thẳng, sắp nhỏ, ảnh, chỉ, bả, ổng, tao, má nó, mầy, tao, hắn, y, mình… Và những ngữ khí từ đặt ở cuối câu hoặc dùng để nhấn mạnh ý: bất nhân hôn, dữ hôn, mắc giống gì, còn ức nỗi gì, làm giống gì, thiệt chớ, nhiều hôn, mà làm gì, biết hôn, được hôn, nghe hôn, giàu giống gì, như vầy nè, phải hôn, nghĩ nỗi gì…

Nhiều từ địa phương nếu không được đưa vào một ngữ cảnh cụ thể thì sẽ rất khó hiểu. Có thể so sánh một số từ địa phương trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh với từ toàn dân để thấy rõ điều đó: chác nghĩa=chuốc nghĩa, mang nghĩa;cháng=choáng; chau vau=mất tinh thần, vẻ mặt như người mất ngủ; chạy tờ=báo cáo; chiết: sẻ, chia; chim bỉm=không nói, không có ý kiến, nín thinh; chừ bự: thụng mặt khi giận dữ; cừ ngạnh=cứng đầu, chống đối; đáo để =tận đáy, tận cùng; đếm=mua sỉ, bán sỉ; leo cheo=lời qua tiếng lại; lưng túc= thiếu thốn; mảng=chuyên chú; nghễu nghến=đi tới đi lui; nhụt nhụt=không còn mới; tầm ruồng=lòng vòng, không có chủ đích; thả rều=đi dạo không có mục đích; trạo phu=người chèo ghe; trịt=kéo xuống, xệ xuống; trộ trạo= trừng trợn; ui ui=có mây che, không đủ ánh sáng; vi kiến=vây cánh; viết não= viết nháp; vúc vắc=múa tay, múa chân; xẳng=nói nặng; xáng=thoáng; xốc= đảo lộn để kiểm điểm; xọp=teo, xẹp; xơ xải=xơ xác, tơi bời; xạc lơ=không nhiệt tình; van vầy=van xin; tửng=sang lại…

Các địa danh trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đều có tên gọi. Đó là những địa danh quen thuộc của vùng đất Nam Bộ như: Cà Mau, Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Vinh, Gò Công, Sóc Trăng, Bình Thủy... Có thể nói, với hàng trăm địa danh quen thuộc của vùng đất Nam Bộ, Hồ Biểu Chánh đã cho người đọc nhìn thấy rõ ràng khung cảnh của vùng đất nơi đây.

Hồ Biểu Chánh đã sử dụng cách gọi tên đất, tên người rất quen thuộc và gần gũi đối với người dân Nam Bộ. Nhờ việc thể hiện cụ thể, chân thực đất và người Nam Bộ như thế mà Hồ Biểu Chánh đã giúp người đọc hình dung được một quang cảnh rộng lớn của vùng đất này những năm đầu thế kỷ XX.              

 

C. KẾT LUẬN

                  Từ đầu thế kỷ XX trở đi, văn học Việt Nam bước vào một quá trình hiện đại hóa toàn diện: từ quan niệm thẩm mỹ đến thể loại, từ kết cấu tác phẩm đến ngôn ngữ văn học… Tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ được hình thành phát triển như một tất yếu. Hồ Biểu Chánh được xem là một trong những nhà văn công lớn trong việc đặt nền móng cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Đóng góp chủ yếu của Hồ Biểu Chánh đối với sự hình thành thể loại tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai này là mở rộng đề tài phản ánh đời sống, tập trung xây dựng nhân vật đặc biệt chú ý đến ngôn ngữ kể chuyện. Hồ Biểu Chánh cũng tiếp thu những thành tựu nghệ thuật của tiểu thuyết phương Tây để tạo dựng những yếu tố mới về nghệ thuật trong sáng tác của mình, thể hiện qua ngôn ngữ, nghệ thuật xây dựng nhân vật, lựa chọn chi tiết, kết cấu… Tiểu thuyết Con nhà giàu riêng và tiểu thuyết nói chung của Hồ Biểu Chánh được xem một bức tranh truyền thần bằng chữ hết sức sống động chính xác về cuộc sống và phong tục của người dân Nam Bộ.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.                 Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp (1988), Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (Sơ thảo), Nxb TP. Hồ Chí Minh.

2.                 Hồ Biểu Chánh, Con nhà giàu(2015),NXB Văn Hóa Văn Nghệ.

3.                 Huỳnh Phan Anh (1972), Đi tìm tác phẩm văn chương, Nxb Đồng Tháp, Sài Gòn.

4.                 Phạm Ngọc Hiền, Tiểu  thuyết Việt Nam 1945-1975, NXB Tỗng hợp TP.Hồ Chí Minh.

5.                 Nguyễn Kim Anh (chủ biên, 2004), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

6.                 Quốc Anh (1978), “Nông cổ mín đàm và cuộc thi tiểu thuyết đầu tiên trong lịch sử văn học quốc ngữ”, Văn học, (3), tr. 41.

7.                 Vũ Tuấn Anh (1991), “Tư duy nghiên cứu văn học hiện đại trước yêu cầu đổi mới”, Văn học, (5), tr. 6.

8.                 Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (chủ biên, 2001), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến 1945, Nxb Văn học, Hà Nội.

9.                 Vũ Tuấn Anh (2002), “Ba mươi năm đầu thế kỷ: Sự định hình tính chất mới, hệ thống thể loại mới của văn học Việt Nam hiện đại”, Văn học, (3).

10.             M. Arnaudov (1978), Tâm lý học sáng tạo văn học (Hoài Lam, Hoài Ly dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

11.             Lại Nguyên Ân, Nguyễn Minh, Phong (biên dịch, 1983), Số phận của tiểu thuyết, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội.

12.             Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (1995), Từ điển văn học Việt Nam, quyển 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

13.         Lại Nguyên Ân (biên soạn, 2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

TPHCM, 10.7.2021

TRƯƠNG HOÀNG LONG

Thứ Tư, 7 tháng 7, 2021

KHỦNG HOẢNG SINH THÁI VÀ CÁC BÀI HỌC VỀ CHẤN THƯƠNG TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI


1. Mở đầu

     Trong các nguy cơ đưa tới khủng hoảng sinh thái, chiến tranh là thứ không gì khủng khiếp hơn. Chiến tranh vừa phá vỡ/hủy diệt sinh thái tự nhiên, vừa gây nên những sang chấn tinh thần ghê gớm và để lại di chứng nặng nề. Không chỉ trong đời sống lịch sử, xã hội mà trong văn học, vấn đề này cũng đã được thể hiện rất rõ. Từ góc nhìn phê bình sinh thái và lý thuyết chấn thương, bài viết phân tích một số tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại phản ánh đề tài chiến tranh, qua đó hy vọng đưa tới những cảm nhận cụ thể hơn về hậu quả và những di chứng nặng nề mà chiến tranh để lại trong cuộc sống con người. Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến phê bình sinh thái chúng tôi tham khảo từ tài liệu: Văn học sinh thái và lý luận phê bình sinh thái, Đỗ Văn Hiểu dịch từ cuốn Đương đại Tây phương tối tân văn luận giáo trình của Vương Nhạc Xuyên. Một số vấn đề liên quan đến lý thuyết chấn thương chúng tôi tham khảo từ các tài liệu của Amos Golbberg và Cathy Caruth. Các tác phẩm được phân tích ở đây là: Đất (Ngọc Giao), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Và khi tro bụi (Đoàn Minh Phượng).

2. Phân tích

     Môi trường sinh thái được hiểu là môi trường mà ở đó các sinh vật được sống như là chính nó. Trong vũ trụ, con người là sinh vật phức tạp nhất. Ngoài đời sống tự nhiên, con người còn có phần đời sống xã hội, đời sống tinh thần, tâm linh vô cùng phong phú. Bởi vậy, môi trường sinh thái để con người sống cho ra con người không chỉ bao gồm những điều kiện tự nhiên, mà còn cả các điều kiện xã hội, văn hóa, tinh thần,… Theo đó, nguy cơ sinh thái của con người không chỉ là thảm họa thiên nhiên, ô nhiễm môi trường nước, không khí, tiếng ồn, thức ăn,…; mà cả những điều kiện bất lợi cho đời sống tinh thần. Có rất nhiều nguy cơ sinh thái tinh thần trong sự sống của con người, chẳng hạn: sự thay đổi môi trường sống, chiến tranh, ly tán, mất người thân, bị hắt hủi/ngược đãi, bị đọa đày, bị xúc phạm nhân phẩm, bị ép buộc, cấm đoán,… Tuy vậy, lâu nay, những nguy cơ về sinh thái tự nhiên vẫn được quan tâm hơn, được xem như là yếu tố quan trọng nhất, có những ảnh hưởng mang tính chất quyết định đối với sự sống của con người. Chính vì thế tuy khái niệm “sinh thái học” (ecology) được đề xuất từ khá sớm, nhưng thời đại văn học sinh thái của nhân loại mãi đến nửa sau thế kỷ XX mới chính thức hình thành.

     Khảo cứu văn học Việt Nam hiện đại, chúng tôi nhận thấy, ngay từ đầu thế kỷ XX, những tiếng kêu cứu cho con người đã khẩn thiết cất lên xuất phát từ những nhìn nhận sâu sắc về bản chất con người và các căn nguyên khủng hoảng sinh thái ảnh hưởng đến đời sống của họ. Trong các nguyên nhân đưa tới khủng hoảng sinh thái của con người Việt Nam trong thế kỷ XX, chiến tranh là nguyên nhân chính, là căn nguyên của nhiều nỗi đau khổ, nhiều chấn thương tinh thần không dễ xoa dịu. Bởi thế các diễn ngôn về chấn thương/khủng khoảng sinh thái do chiến tranh đã xuất hiện khá nhiều.

     2.1. Tiểu thuyết Đất của Ngọc Giao

     Đất được viết năm 1949, được đăng nhiều kỳ trên các báo Lẽ sống, Lên đường, Công tội và được Nhà xuất bản Cây thông xuất bản lần đầu năm 1950. Đất thuộc trong số những tiểu thuyết quan trọng của Ngọc Giao, là một khám phá sâu sắc, mới mẻ của ông về thân phận người nông dân, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh.

     Ngữ cảnh sinh thái trong tiểu thuyết này là cuộc xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp vào đất nước ta. Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết là Xã Bèo – một người nông dân cần cù, lam lũ, yêu đất hơn cả sự sống của chính mình. Xã Bèo xuất thân nghèo túng, nhờ chăm chỉ và ra sức dành dụm, chắt bóp, lại thêm “được mồ được mả ra sao” (được phù hộ của tổ tiên) mà mới có một năm trời trở lại (trong khoảng gần một năm) đã tậu được vài sào ruộng tốt, mua được con trâu, ngâm bè tre và nay lại mới tậu được thêm mảnh vườn nữa. Nhưng niềm vui chưa kịp hưởng, Xã Bèo đã nhìn thấy lửa chiến tranh cháy đến làng mình. Cảnh tượng ấy làm cho Xã Bèo vô cùng khiếp sợ, đau đớn. Ngay lập tức, Xã Bèo hình dung ra một tương lai của sự hủy diệt: tất cả các sinh mệnh rồi sẽ chết.

     Sự tàn phá, hủy diệt các sinh mệnh của bom đạn chiến tranh đã dẫn tới một sự phá vỡ nghiêm trọng môi trường sống của con người. Xã Bèo sau khi tự đốt nhà mình đã dắt díu mẹ già, vợ ốm, con thơ,… tìm nơi lánh nạn. Trong cuộc thiên di đầm đìa nước mắt, vợ chồng Xã Bèo đã chứng kiến một cảnh tượng loạn lạc, hoang tàn chưa từng thấy. Mặc cảm bơ vơ, lạc lõng, sợ sệt in hằn trên mỗi dấu chân đặt lên đất khách và vỡ oà thành tiếng khóc nhớ nhà, nhớ quê nức nở trong lòng. Nhưng điều làm cho Xã Bèo khổ sở nhất là nỗi nhớ đất quay quắt trong lòng. Hơn một năm trời ở miền rừng sâu núi thẳm, không chịu đựng nổi cảnh bệnh tật, đói khát, cộng thêm nỗi nhớ quê nhớ đất cồn cào, gia đình Xã Bèo lại dắt díu nhau hồi cư. Trở về khi làng cũ đã chuyển thành vùng bị địch chiếm đóng, Xã Bèo chứng kiến cảnh hoang tàn đổ nát trong đau xót. Cuộc sống ở vùng bị địch chiếm đóng vừa đói khát, thiếu thốn, vừa nghẹt thở vì súng đạn, bắt bớ, cướp bóc,… khiến sự sống của con người thường xuyên bị đe dọa. Nhưng vì yêu đất, vì muốn gắn bó với đất, Xã Bèo cam chịu sống trong sự kìm kẹp. Cuối cùng thì con trâu – con vật mà Xã Bèo “sống vì nó, với nó, cũng như anh ham sống, cần sống với cha mẹ, vợ con” – cũng bị lính tề cướp mất, vợ chồng Xã Bèo đau đớn đến phát điên. Lại phải bỏ làng đi, nhưng không thể rời xa đất, Xã Bèo xót xa nhìn vợ thay trâu rỏ nước mắt vào lòng đất mà không khóc nổi vì không còn nước mắt.

     Từ tiểu thuyết này có thể thấy, chiến tranh chính là một loại căn nguyên của thảm họa sinh thái. Chiến tranh không chỉ tàn phá sinh thái tự nhiên, mà còn hủy diệt nghiêm trọng sinh thái tinh thần của con người. Quá nhiều nước mắt của vợ chồng Xã Bèo đã rớt xuống. Nói cách khác, đọc tác phẩm, chỉ cần thống kê những tiếng khóc của Xã Bèo là đủ thấy chiến tranh đã đày đọa sự sống của người ta khủng khiếp thế nào. Luận điểm này càng được xác tín nếu ta đọc thêm các sáng tác cùng thời cùng viết về chủ đề này, như truyện ngắn Làng của Kim Lân chẳng hạn. Các nhân vật như Xã Bèo (Đất), ông Hai (Làng) thấm thía hơn ai hết nỗi thống khổ mà chiến tranh đã đưa tới. Bởi vậy, các tác phẩm này cảnh báo con người về một đạo đức sinh thái: Vì sự sống bình yên của các sinh mạng, hãy chấm dứt mọi sự hủy diệt, nhất là hủy diệt bằng bom đạn chiến tranh.

     2.2. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh

     Nỗi buồn chiến tranh là tiểu thuyết của Bảo Ninh, xuất bản lần đầu năm 1990 và lập tức trở thành một hiện tượng trong đời sống văn học ở Việt Nam. Tác phẩm đã nhận được nhiều tặng thưởng, giải thưởng và được đánh giá là “cuốn tiểu thuyết xúc động nhất về chiến tranh Việt Nam”. Tuy vậy, từng có thời gian tiểu thuyết này bị cấm phát hành. Năm 2005, tác phẩm xuất hiện trở lại bởi Nhà xuất bản Hội Nhà văn với tên gọi Thân phận của tình yêu. Hiện tại, nó được gọi bằng tên gọi nguyên thủy: Nỗi buồn chiến tranh. Tác phẩm đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, được ca ngợi ở nhiều nước và trở thành niềm tự hào của nền văn học Việt Nam.

     Ngữ cảnh sinh thái của Nỗi buồn chiến tranh là cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ vào nước ta từ sau chiến tranh Đông Dương kết thúc và cuộc sống thời hậu chiến của những người từng tham gia chiến trận. Vậy nên, nếu tiểu thuyết của Ngọc Giao chỉ đề cập đến hậu quả trực diện của khủng hoảng sinh thái, thì tiểu thuyết của Bảo Ninh còn đề cập đến những di chứng nặng nề từ sau khủng hoảng ghê gớm đó.

     Cũng giống như trong tiểu thuyết của Ngọc Giao, chiến tranh đã phá vỡ nghiêm trọng môi trường sống bình yên của con người. 17 tuổi, còn trên ghế nhà trường, Kiên đã phải từ bỏ giấc mộng thi cử, từ biệt người con gái xinh đẹp đã gắn bó suốt một thời thơ ấu với bao nhiêu tình cảm mến thương âu yếm của tuổi học trò để vào Nam chiến đấu. Cảm nhận về giờ phút chia lìa, với Kiên, như là một nhắt dao cắt vào lòng. Nhưng đó là nỗi đau có thể nguôi vơi cùng với thời gian. Những tác động trực tiếp của bom đạn, của chiến trường mới thực sự tạo nên những chấn thương tinh thần quá sức chịu đựng để rồi sau cuộc chiến tranh ấy Kiên “dường như chẳng còn ở trong một “kênh” với mọi người”. Bởi vậy, cuộc chiến của dân tộc vừa kết thúc, Kiên, lập tức phải đối mặt với cuộc chiến trong lòng mình. Ra khỏi cuộc chiến nhưng Kiên không sao dứt khỏi những ám ảnh về nó. Những hình ảnh về chiến tranh gợi ra những cảm xúc đau đớn, hãi hùng, tuyệt vọng, nhớ tiếc, xót xa,… – những kinh nghiệm chấn thương – đã tái diễn một cách không thể kiểm soát được suốt quãng đời còn lại của Kiên.

     Như vậy, chiến tranh, dù ở đâu và bằng cách nào, đối với Kiên vẫn là một sự tác động vượt ngưỡng của hoàn cảnh, tạo nên những chấn động tinh thần quá sức chịu đựng. Nhưng ngay tại thời điểm “bị thương”, Kiên đã chưa thể hình dung hết ý nghĩa của nó. Các vết thương nhanh chóng bị “đàn áp” bởi tiếng gọi của niềm khát khao sống mãnh liệt. Chỉ đến khi rời khỏi cuộc chiến tranh, sau nhiều nỗ lực hòa giải và hàn gắn vết thương không thành, Kiên mới nhận thấy hết bộ mặt quái vật của nó. Theo lý thuyết của Cathy Caruth, Kiên chính là kiểu nhân vật chấn thương điển hình, là hình ảnh cô đọng nhất về chấn thương trong văn học Việt Nam thế kỷ XX. Có lẽ vì thế một phần mà Nỗi buồn chiến tranh đã được đưa vào chương trình giảng dạy đại học ở Mỹ và được nhiều người Mỹ biết đến như là cuốn sách duy nhất của người Việt về chiến tranh Việt Nam.

     2.3. Tiểu thuyết Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng

     Đoàn Minh Phượng có nhiều năm sống ở Đức và hiện tại đi về giữa Việt Nam và Đức. Tiểu thuyết Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng được xuất bản lần đầu năm 2006 bởi Nhà xuất bản Trẻ và là cuốn sách duy nhất được nhận giải thưởng văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2007.

     Chấn thương xảy ra đối với An Mi (Và khi tro bụi) cũng bắt đầu từ một cú va chạm vượt ngưỡng với hoàn cảnh. Đó là khi một đứa bé bảy tuổi hoảng sợ tới mức “gần ngất đi” vì trong tay ôm xác mẹ mà trên không “đạn đang tiếp tục rú những tiếng kinh hoàng”. Trốn chạy khỏi cảnh tượng hãi hùng ấy như một bản năng sinh tồn, An Mi (lúc nhỏ tên là An) đã bỏ lại con bé em ba tuổi với tiếng kêu cứu yếu ớt mà liền ngay sau đó, tất cả bị chìm trong quên lãng bởi một trí nhớ còn quá non nớt. Cũng bởi một trí não non nớt, tại thời điểm đó, An Mi hoàn toàn không hiểu ý nghĩa của hành động “trốn chạy” này. Cuộc sống mới tại một đất nước xa xôi/xa lạ đã khiến mọi kỷ niệm của An Mi chìm sâu vào ký ức. An Mi trở thành con nuôi của một gia đình người Đức, An Mi như tìm lại được tổ ấm của mình. Rồi một ngày, người cha nuôi nổ súng tự sát trong nhà thờ, trong mắt mẹ nuôi, An Mi là thủ phạm. Không chỉ mất đi “tình yêu quan trọng nhất đời”, để xóa được tội lỗi, An Mi đồng thời xóa hết mọi kỷ niệm êm đềm. Nhưng đòn “chí mạng” đẩy An Mi đi tìm cái chết là sự ra đi đột ngột của người chồng vì tai nạn giao thông. Tuy nhiên, một sự thức nhận bản thể sâu sắc đã không cho phép An Mi không biết mình là ai trước khi tìm đến cái chết. Trên hành trình kiếm tìm bản thể, An Mi (tưởng) như đã thấy mình trong cuộc đời bất hạnh của Michael – người trực đêm khách sạn – qua cuốn nhật ký lạ lùng của anh ta, trong cuộc đời Marcus – một đứa trẻ 7 tuổi mắc chứng PTSD rất nặng. Nhưng kết thúc hành trình hơn hai năm tìm kiếm nhọc nhằn, An Mi vẫn không sao xóa được cảm giác bất an, nỗi đau thương tinh thần chuyển hóa thành đau đớn nhục thể. Trong giờ phút cận kề cái chết, những ký ức xa xăm đã trở về, nói cho An Mi biết rằng cô vốn là một đứa trẻ mồ côi, đến từ một đất nước có chiến tranh.

     Như vậy, với An Mi, chiến tranh cũng là cú va đập quá dữ dội và khốc liệt, tạo nên những sang chấn tâm lý nặng nề. Nhưng kinh nghiệm chấn thương trong trường hợp này lại không phải là những nỗi sợ hãi, đau đớn, nhức buốt gặm nhấm tâm can sau thời kỳ “ủ bệnh” trong quên lãng như Kiên (Nỗi buồn chiến tranh), mà “di căn” thành cảm thức lạc loài, lạc điệu, thiếu quê hương. An Mi luôn cảm thấy mình đã bị bật ra khỏi gốc rễ, không biết đâu là cội nguồn. Câu hỏi hiện sinh Tôi là ai? cũng vang lên nhói buốt chính từ cảm thức đó. Như vậy, dù không trực diện đề cập đến đề tài chiến tranh như tác phẩm của Bảo Ninh, nhưng với những gì Đoàn Minh Phượng thể hiện trong Và khi tro bụi có thể thấy chiến tranh bao giờ cũng để lại những di chứng rất nặng nề trong cuộc sống của con người. Mặc cảm lạc loài của thân phận tha hương (diaspora) giày vò An Mi trong suốt phần đời còn lại trên đất khách là một kiểu di chứng chiến tranh không dễ dàng nhìn thấy. Nhưng đó lại là tâm thức chung của cộng đồng tị nạn người Việt ở nhiều nước, nhất là ở Mỹ, từ sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc cho dù lý do rời bỏ tổ quốc của họ không hoàn toàn giống nhau. Trong bối cảnh rất ít người ở phía bên kia (người Mỹ) muốn hiểu thêm về tiếng nói và trải nghiệm của người Việt để hiểu biết trọn vẹn về chiến tranh Việt Nam, rất nhiều tác phẩm của người Việt và người Mỹ gốc Việt nói về những tổn thương tâm lý do chiến tranh đã ra đời “như một cách sửa chữa sự thiếu hiểu biết này”. Tiếc rằng đa phần trong số đó chưa được dịch ra tiếng Việt để có thể đến gần hơn với độc giả trong nước như Và khi tro bụi.

3. Kết luận

     Qua những tác phẩm trên đây có thể thấy, chiến tranh luôn là căn nguyên của những khủng hoảng sinh thái (hiểu theo nghĩa đầy đủ nhất của nó là bao gồm cả sinh thái tự nhiên và sinh thái xã hội, tinh thần) nghiêm trọng đối với sự sống của con người. Thế nên, chiến tranh cũng là căn nguyên của rất nhiều chấn thương tâm lý mà biểu hiện của nó, (ở mức độ) nhẹ thì là những tiếng khóc than, còn (ở mức độ) nặng nề hơn là di chứng thành những trạng thái mà con người ta không còn là mình hoặc không biết mình là ai nữa. Suốt gần một thế kỷ chịu đựng và trải qua các cuộc chiến tranh vệ quốc, đất nước, con người Việt Nam phải chịu nhiều tổn thất ghê gớm. Những tác phẩm về chiến tranh kể trên không chỉ lưu lại những thời đoạn đau thương của lịch sử dân tộc Việt Nam, mà còn luôn hiện diện như những lời nhắc nhở buồn đau mà nghiêm khắc đối với tất cả, rằng: vì sự sống của các sinh mệnh, nhất là sự sống của con người, hãy chấm dứt/từ bỏ mọi cuộc chiến tranh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bảo Ninh. (2005). Nỗi buồn chiến tranh. (in lại). Hà Nội: NXB Hội Nhà văn.

2. Caruth, C. (1991). “Unclaimed experience: Trauma and the Possibility of History”. Yale French Studies, (79), 181-192. Accessed at
https://www.researchgate.net/publication/265273262_Unclaimed_Experience_Trauma_and_the_Possibility_of_History.

3. Caruth, C. (1996). Unclaimed experience: Trauma, Narrative, and History. Baltimore & London: The John Hopkins University Press.

4. Đoàn Minh Phương. (2007). Và khi tro bụi. (tái bản lần 1). Hà Nội: NXB Thanh niên.

5. Goldberg, A. (2006). “Trauma, Narrative and Two Forms of Death”. Literature and Medicine 25, (1), 122-141. Accessed at https://muse.jhu.edu/article/202366

6. Kim Lan. (2002). Làng. (in lại). Hà Nội: NXB Kim Đồng.

7. Ngọc Giao. (1950). Đất. Hà Nội: Cây Thông xuất bản.

8. Nguyen Thanh Viet. (2017). “The Great Vietnam War Novel Was Not Written by an
American”. Accessed at https://www.nytimes.com/2017/05/02/opinion/vietnam-war-novelwas-not-written-by-an-american.html

9. Vuong Nhac Xuyen. (2008). “Ecological literature and Theory of ecological criticism”.
(Translated by Do Van Hieu). Contemporary Ultramodern Western Literature Curriculum.
Shanghai: Phuc Dan University Publishing House.

LÊ TÚ ANH
(Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Trường Đại học Hồng Đức)

TPHCM, 7.07.2021

SƯU TẦM: TRƯƠNG HOÀNG LONG


VĂN HOÁ GIAO TIẾP của NGƯỜI NAM BỘ qua TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH – MỘT GÓC NHÌN                                                             ...