1. Giới thuyết chung về phê bình đồng tính.
Phê bình đồng tính quan tâm đến con
người của giới tính, nhìn nhận lại giá trị giới tính và phái tính thực sự của con người. Dưới lăng kính của phê bình đồng tính, những
giới tính khác (như les, gay…) bên ngoài sự đối lập nhị nguyên vốn có
của giới tính được thừa nhận. Tức
là, con người ở giới tính thứ ba được chấp nhận như là một điều tự nhiên. Bởi vì
phê bình đồng tính để cho hiện trạng giới tính thực sự của con người lên tiếng
nên cũng đồng thời phản đối lại với những định kiến và rào cản mà xã hội áp đặt lên giới khác. Việc
con người có một giới tính khác so với quy chuẩn
xã hội đã được kiến tạo cũng không phải là một điều phi tự nhiên. Sự xuất
hiện của phê bình đồng tính bên cạnh hiện tượng đồng tính kêu gọi việc đem mọi
thứ trở về với trạng thái tự nhiên của chính nó. Việc phân biệt nam và nữ đã
giết chết đi cái thực sự gọi là phái tính và giới tính. Con người không cần
phải sống trong một cái khung bó hẹp nào mà được quyền bộc lộ bản thân họ,
không phương hại đến xã hội.
Trong văn học, phê bình đồng tính tập trung đi tìm yếu tố phái tính và giới tính trong tác
phẩm, phân tích những tác động xã hội và tâm lý để hình thành bản thể người đồng tính và quá trình xác định bản thể của
chính họ. Về mặt diễn ngôn, phê bình đồng tính đi vào hệ thống hóa những cách
biểu đạt và thể hiện, đặc biệt là khác thác hệ thống các yếu tố tượng trưng và
sự thể hiện một cách kín đáo. Hơn hết, phê bình đồng tính cũng đặc biệt chú
trọng khảo sát các hiện tượng bị áp đặt về giới từ trong quá khứ cho đến hiện tại.
2.Dấu ấn phê bình đồng tính “Người cô độc” của Christopher Isherwood
Tác phẩm “Người
cô độc” của Christopher Isherwood xuất bản lần đầu vào năm 1964, là bức
tranh một ngày của một người đồng tính ở tuổi trung niên sau cái chết của người
yêu. Tiểu thuyết là tất cả, bao gồm nỗi đau mất mát của con người, sự trần trụi
của xã hội, những triết lý về hiện sinh. Ở bài viết này, người viết tập trung làm sáng tỏ tác phẩm dưới góc nhìn của phê bình đồng tính. Sau đây là hệ thống câu hỏi có thể được đặt ra trong quá
trình tiếp cận:
1. Những áp lực của xã hội đối với nhân vật?
2. Biểu hiện của sự trình diễn giới trong tác phẩm?
3. Có hay không sự kỳ thị/ bệnh sợ đồng tính trong tác phẩm?
4. Nhân vật có trả lời được câu hỏi “Tôi là ai?”?
5. Nhân vật trong tác phẩm rơi vào trạng thái như thế nào? Bị cô lập hay có khả năng sống hòa đồng với những người
khác trong xã hội?
6. Nhân vật có được xây dựng với những mặc cảm, tự ti
hay không?
7. Những khao khát nhục cảm được thể hiện như thế nào?
8. Hiện tượng đồng tính trong tác phẩm được biểu đạt thông qua một hình thức
ẩn ngôn, che giấu hay công khai?
9. Tác phẩm là sự tự thuật của tác giả
hay sự phản tư, chất vấn về một hiện tượng xã hội?
10. Nhà văn có phải đang đi theo xu thế làm “nhiễu” đi những đối lập nhị nguyên
vốn có nhằm mở ra một lối thoát mới cho văn học, đồng thời cho việc nhìn nhận
bản thể con người?
“Người cô độc” không miêu tả trần trụi về đời sống và mối quan hệ của những người đồng tính mà ngược lại là bức tranh
về thế giới tinh thần, những góc khuất đầy trăn trở và đau đớn trong suy nghĩ
của họ. Yếu tố đồng tính mà Isherwood thể hiện bàng bạc trong toàn bộ tác phẩm, được thể hiện một cách tinh tế và đầy triết
lý trên hai phương diện chính
là xã hội và thế giới nội tâm của người đồng
tính.
Xã hội trong tương quan với người đồng
tính chính là cái nhìn kỳ thị và thái
độ xa lánh. Con người trong xã hội luôn hướng về người đồng tính dưới góc nhìn
không mấy thiện cảm. Những đứa trẻ
hàng xóm luôn bày ra những trò phá bĩnh George, khiến ông không thể kiềm chế bản thân mà bộc lộ ra những mặt xấu tính trong con người mình,
tưởng chừng như là sự mô tả về đời sống thường ngày của ông với sự ngợm
ngịch ngây thơ của lũ trẻ hàng xóm nhưng điều đó không hẳn là như thế. Hành động của những đứa trẻ như là
sự mô phỏng cách con người trong xã hội đối xử với người đồng tính. Họ xem người đồng tính như những con quái vật, xem sự
khác biệt của đồng tính là khuyết điểm để trêu chọc và phá phách. Tuy rằng nhìn
nhận hiện tượng đồng tính dưới con mắt đùa cợt, chế giễu nhưng những con người
ấy lại không có can đảm đối diện với người đồng tính. Cũng như những đứa trẻ
chọc phá George, họ “nhìn ông lạ lẫm và dè chừng”1. Xã hội luôn ngăn
ra những khoảng cách nhằm tách bạch họ với thế giới con người mà họ cho là bình
thường, cách li và xa lánh người đồng tính. Họ có thể có những hành động khiếm
nhã nhưng lại không dám đối diện với một người đồng tính bởi họ luôn cho đó là
một cái gì ghê tởm, là
Một nhóm những người khác không tỏ thái
độ kỳ thị một cách trực tiếp đối với người đồng tính nhưng họ lại có chút e dè
và cảm thấy xấu hổ nếu việc họ có mối quan hệ
thân tình với người đồng tính được người khác biết. Bà Strunk luôn đối với
George với một thái độ áy náy pha lẫn chút đồng tình. Bà Strunk đại diện cho nhóm người có hiểu biết
trong xã hội. Vì vậy bà đã có thái độ thông
cảm với người đồng tính, chấp nhận họ là chính
họ chứ không xem họ như một căn bệnh xã hội. Thế nhưng, có lẽ sự thông cảm và
chấp nhận đó không đủ để cứu vớt họ trong cái xã hội mà người ta luôn có xu hướng xem thường những người như George.
Gia đình bà Strunk rất nhiệt tình trong cách hành xử với George nhưng ông bà lại muốn giấu diếm sự
qua lại với những người khác. Bà Strunk đã không ngại mời George sang thăm nhà vì thấy ông cô đơn khi sống một mình. Nhưng
khi George muốn cùng ông bà Strunk dùng tiệc gia đình với những người khác, bà Strunk có ý từ chối.
Những áo lực xã hội không chỉ đặt nặng lên người đồng tính mà còn chính những
người xung quanh họ. Những người tiếp xúc với họ đều bị ảnh hưởng bởi những cái
nhìn không tốt, bị cho là những người không chín chắn. Định kiến xã hội như thế
quá khắc nghiệt đối với họ, khiến cho họ không chỉ lạc lõng trong chính bản ngã
của mình mà còn lạc lõng ngay trong thế giới thực tại.
Những áp lực của xã hội đặt lên người
đồng tính tàn khốc hơn khi đối tượng là những con người có chức phận cấp cao
hơn. Họ chống lại người đồng tính bằng những hoạt động cụ thể. Những nhà báo đã
viết những bài viết kêu gọi sự chống lại lệch lạc giới tính. Họ xem đồng tính
như một căn bệnh hoặc coi họ là những người mang trong mình những mầm bệnh nguy
hiểm và kêu gọi những người khác lánh xa. Không dừng lại ở đó, họ dường như còn
mong muốn dùng những hình phạt cổ hũ, lạc hậu chỉ với mong muốn tiêu diệt hoàn
toàn đồng tính. “Những bộ luật hiện hành chống lại chúng là còn quá nhân từ”2.
Những sức ép từ phía xã hội đẩy người
đồng tính đi vào ngõ cụt. “Họ lạc lõng, bị tước đi mãi mãi những điều tốt đẹp
nhất trong cuộc sống, họ đáng thương, không đáng trách”3. Người đồng
tính trở thành những “kẻ ngoại đạo” bị tổn thương về mặt tinh thần. Họ bị xa
lánh bởi xã hội đến nỗi phải tránh né cộng đồng để trở thành những người đứng
bên lề. Họ không có lỗi. Quy luật kiến tạo của xã hội đã khiến căn tính giới của họ đi ngược
lại với bản thể được quy định của họ. Việc họ sống như là chính
không phải là điều sai trái.
Thế nhưng những định kiến xã hội đã khiến họ trở thành người mang tội.
Diễn ngôn của tác giả khi nói về người
đồng tính trong mối tương quan với xã hội có tính chất vấn và phản tư.
Isherwood đã mượn suy nghĩ của nhân vật George để nói lên quan điểm của mình.
Ông phản đối lại cách nhìn của xã hội về người đồng tính khi cho rằng họ là “thiểu
số”. Xã hội coi người đồng tính là một cộng đồng thiểu số vì họ là những con người đi ngược lại với những gì
được cho là chính thống của xã hội, hơn nữa, bị phớt lờ và bị đẩy ra ngoài rìa.
Tuy nhiên, Isherwood lại không nghĩ thế. Một cộng đồng được xem là thiểu số chỉ
khi họ là những mầm mống gây nguy hiểm. Trong khi đó người đồng tính gây hại,
họ chỉ là những cá thể đang sống đúng với bản tính vốn có của mình. Quan điểm của tác giả nhầm phản đối lại những cách nghĩ cho rằng người đồng tính là cái gì xấu xa, chống lại những hành động muốn
loại trừ người đồng tính hoặc giễu cợt, dùng những hình ảnh của người đồng tính
với mục đích cười cợt mua vui.
Người đồng tính trong tác phẩm của
George không chỉ chịu áp lực từ phía xã hội mà còn từ chính trong thế giới tinh
thần của mình. Yếu tố đồng tính trong “Người cô độc” không thể hiện qua những ngọt ngào, trọn vẹn của tình yêu
mà thông qua những mất mát. George đã mất đi người mình
yêu thương nhất. Nỗi đau to lớn đó đã đẩy George
đứng vào tâm thế của một người
trung niên cô độc. George đã mất đi Jim. Việc mất đi một người bản thân hết mực yêu thương,
khiến George hờn giận và đổ hết mọi tội lỗi lên thế giới. Nó
khiến ông không muốn gần gũi với cộng động xung quanh và dần trở nên cô đơn.
Tuy nhiên, thực chất trong con người George dường như luôn cảm thấy một sự cách
biệt với mọi người xung quanh.
Ông biết mình khác biệt. Vì vậy George luôn chìm đắm trong một
Nhân vật George còn đặc biệt mang tâm
thế của một người không được sống thật với bản thân mình mà là nạn nhân của
hiện tượng trình diễn giới. Nhân vật được đặt trong tâm thế sắm vai một người khác mà xã hội mong muốn chứ không
phải chính mình. George
hằng ngày phải đeo một chiếc mặt nạ của một quý ông. Mỗi sáng ông thường tốn khá nhiều thời gian để chuẩn bị, từ trang
phục, đến phong thái, cung cách cư xử, để sao cho phù hợp với hình ảnh mà người ta đã từng biết về một người
đàn ông trung niên được gọi là George.
‘Hắn phải mặc quần áo vào, vì hắn đang sắp phải ra ngoài, bước vào thế giới của
những con người khác ngoài kia, mà những người này cần được nhìn nhận về hắn
như những gì hắn đã gầy dựng. Hành vi của hắn cần phải nằm trong sự thỏa đáng
với họ”5. Người đồng tính, để che giấu bản thân mình, họ phải giả vờ thực hiện những hành vi đúng với giới tính
sinh học đã được quy định. Mỗi cá nhân trong xã hội nhìn chung đều có những vai
khác nhau trong những môi trường
khác nhau. Nhưng
người đồng tính luôn có một vai diễn khá đòi hỏi một nỗ lực to lớn nhằm trình
diễn một giới tính không thực sự là của họ.
Đời
sống nội tâm của người đồng tính thực sự phức tạp không chỉ vì họ có cuộc đời
hai mặt mà còn vì chính bản thân họ không thể định vị được mình. Những người
như George là những con người bị lệch pha giữa bản thể luận và kiến tạo luận. Bản thể luận đã
được quy định ngay từ trước khi họ được sinh ra. Con người bị tước đi quyền
được lựa chọn giới tính sinh học của mình. Trong khi đó ý thức giới được kiến
tạo bởi quá trình được xã hội hóa của con người, dựa trên các yếu tố lịch sử và
văn hóa. Giới tính được lý giải dựa trên thuyết kiến tạo luận như thế phụ thuộc
vào quy định của một cộng đồng và lối sống của cá nhân. Có những người định
hình một sự hợp nhất giữa giới tính sinh học và căn tính giới của họ. Nhưng không phải ai cũng may mắn có được điều đó. Những người
lệch pha bị trật ra khỏi đường ray của những đối lập nhị nguyên vốn có trong vũ
trụ và tự nhiên. Họ bị đẩy vào một “thế giới thứ ba” nơi mà ở đó họ thấy mình
như một cá thể bị phân mảnh và xé lẻ. Họ là những con người của sự phi nhất
quán của cái bên trong và cái bên ngoài, một hiện tượng mà người ta chưa thể
định nghĩa được. Chính vì thế, bản thân họ cũng không thể xác định bản thể của
mình. Họ là ai? Họ là gì? Họ nên sống như thế nào? “Tôi như một quyển sách cậu
phải đọc. Quyển sách không thể tự đọc cho cậu nghe. Nó thậm chí không biết nó
là cái gì. Tôi thậm chí không biết tôi là ai”6.
Sự lạc lõng của cá thể con người được Isherwood trình bày bằng một diễn ngôn hồi cố.
Nỗi đau đớn của George
không thể hiện thông qua không khí buồn ảm đạm hay những
ngôn từ đậm chất u buồn mà bằng những khoảng ký ức về Jim. Thông qua những
khoảng ký ức đó, nhân vật George xuất hiện như một người đàn ông trung niên cô
đơn, nặng trĩu với một tình yêu bị mất. Một ngày của George ngay từ khi thức
dậy luôn ẩn hiện đâu đó hình bóng của Jim và những kỷ niệm về đời sống trước đây giữa George
và chàng trai này.
Trong ngôi nhà quá đỗi chật hẹp đó, không nơi nào là không ghi dấu những va chạm, những sinh hoạt đời thường của Jim và
George “(…), trong thịnh nộ lẫn trong ý tình – hình dung những gì mà họ đã khắc
dấu vô hình vào trong từng khoảng không, từng ngõ ngách của căn nhà”7.
Tuy nhiên, cũng chính bởi không gian đầy ắp kỷ niệm đó mà khi sống trong nó
Khi dùng bữa sáng của hiện tại, George
nhớ về bữa sáng mà ông có cùng Jim. Họ đã ăn cùng nhau và bản về những chuyện
được ông gọi là học thuyết và hàn lâm như chuyện cái chết là có hay không. George cũng nhớ lại kỷ niệm tươi đẹp khi lần đầu tiên họ đặt chân
đến ngôi nhà này. Dù nó là căn nhà khuất sau những bóng cây nhưng họ đã rất yêu mến nơi này và xem nó như ốc đảo của riêng mình.
Việc gợi lại những ký ức quá viên mãn
đó đã tạo nên một sự đối chiếu ngầm với hiện tại nhầm phô bày sự cô độc của
George. “Jim đã chết”, George giờ đây chỉ còn lại ba phần con người. Hiện tại đối với ông là một sự đau thương,
bởi nó luôn gợi nhớ về quá khứ. George giờ đây sống không còn đúng nghĩa
là một con người. Mỗi sáng ông đều loay hoay để có có thể thức dậy. Hành động
ngồi dậy dường như là một nỗ lực mà vất vả lắm mới có thể thực hiện được. Nỗi đau đã bóp nát sự sống trong George. Ông dường như đang
sống là một cái xác không hồn. Sự hiện hữu của ông không còn đúng nghĩa là
chính ông nữa, bởi tâm hồn của George cũng đã chết cùng sự ra đi của Jim. Cái
ông đang phải đối mặt bây giờ chỉ là một thân xác dư thừa và rệu rã.
TPHCM, 2/6/2021
TRƯƠNG HOÀNG LONG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét