Thứ Sáu, 11 tháng 6, 2021

Văn hóa Trung Quốc đầu thế kỉ XX – qua tác phẩm AQ chính truyện của Lỗ Tấn

 



DẪN NHẬP

1.    Lí do chọn đề tài

Trung Quốc là một quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời. Thời trung đại, văn hóa Trung Quốc đã có sự phát triển rực rỡ và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, đất nước Trung Quốc có nhiều biến động lớn, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, văn hóa dân tộc. Đầu thế kỉ XX, khi thực dân phương Tây mở rộng thuộc địa, Trung Quốc đã trở thành “miếng mồi ngon”, đất nước Trung Quốc bị chia năm xẻ bảy bởi các nước Anh, Pháp, Hà Lan…

Lỗ Tấn là một trong những nhà văn hiện thực nổi tiếng của văn học Trung Quốc nửa đầu thế kỉ XX. Trong các tác phẩm của Lỗ Tấn, đất nước Trung Quốc hiện lên với đầy đủ các yếu tố điển hình của văn hóa Trung Quốc trong giai đoạn giao thời, đầy biến động này.

2.    Mục đích nghiên cứu

Đề tài Văn hóa Trung Quốc đầu thế kỉ XX – qua tác phẩm AQ chính truyện của Lỗ Tấn nhằm góp thêm một góc nhìn về văn hóa Trung Quốc đầu thế kỉ XX, góc nhìn văn học văn hóa. Từ đó, ta có thể hiểu thêm về văn hóa Trung Quốc trong giai đoạn lịch sử quan trọng này.

3.    Lịch sử vấn đề

Bài giới thiệu tác phẩm Lỗ Tấn (Trương Chính), năm 2004, phân tích kĩ về hình tượng người nông dân trong truyện ngắn của Lỗ Tấn và hiện thực phong trào cách mạng Trung Quốc trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.

Nhìn chung, có rấ nhiều nhà phê bình, nghiên cứu viết về tác phẩm Lỗ Tấn nói chung và AQ chính truyện nói riêng. Tuy nhiên, hầu như chưa có công trình nghiên cứu tiếp cận tác phẩm của Lỗ Tấn từ góc độ văn học – văn hóa.

4.    Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là Văn hóa Trung Quốc đầu thế kỉ XX qua tác phẩm AQ chính truyện của nhà văn Lỗ Tấn (Trung Quốc). 

Với đề tài này, chúng tôi xin giới hạn trong hệ tọa độ sau:

  • Về chủ thể: văn hóa vùng
  • Về không gian: đất nước Trung Quốc
  • Về thời gian: nửa đầu thế kỉ XX

Tư liệu khảo sát của đề tài này giới hạn trong truyện ngắn AQ chính truyện, in trong Tuyển tập Lỗ Tấn do nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành.

5.     Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

 Trong đề tài Văn hóa Trung Quốc đầu thế kỉ XX qua tác phẩm AQ chính truyện của Lỗ Tấn, chúng tôi vận dụng bộ công cụ ba thành tố văn hóa của Trần Ngọc Thêm[1] (văn hóa nhận thức – văn hóa tổ chức, văn hóa ứng xử) để phân tích những đặc điểm cơ bản của văn hóa Trung Quốc đầu thế kỉ XX trong tác phẩm AQ chính truyện của Lỗ Tấn.

Thông qua đề tài này, chúng tôi mong muốn được góp thêm tư liệu cho việc tìm hiểu, nghiên cứu văn hóa Trung Quốc nói chung, văn hóa Trung Quốc giai đoạn tiếp biến văn hóa phương Tây nói riêng vào nửa đầu thế kỉ XX.

6.    Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu

Trong công trình này, trước hết, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành. Công trình được tiếp cận theo hướng nghiên cứu văn học – văn hóa nên chúng tôi vận dụng những thành tựu nghiên cứu trong văn học. Vì văn hóa Trung Quốc nằm trong phạm vi văn hóa vùng nên chúng tôi đồng thời vận dụng những kiến thức về xã hội học, sử học.

Bên cạnh đó, để làm rõ đặc điểm của văn hóa Trung Quốc trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa, chúng tôi so sánh văn hóa Trung Quốc truyền thống và văn hóa Trung Quốc đầu thế kỉ XX. Phương pháp so sánh được sử dụng trong công trình này là so sánh lịch đại.

Cuối cùng, bản thân văn hóa vùng là một hệ thống tổ chức gồm nhiều yếu tố và các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì thế, trong công trình này, chúng tôi sẽ vận dụng phương pháp hệ thống để nghiên cứu.

Nguồn tư liệu chúng tôi sử dụng để khảo sát trực tiếp là tác phẩm AQ chính truyện của Lỗ Tấn. Chúng tôi chọn tác phẩm AQ chính truyện của Lỗ Tấn làm cơ sở khảo sát vì ở tác phẩm này, các đặc trưng của văn hóa Trung Quốc, đặc biệt là văn hóa ứng xử, được thể hiện rõ nét nhất. Bên cạnh đó, nguồn tư liệu tham khảo, nghiên cứu quan trọng trong công trình này là các bài phê bình, bình luận về tác phẩm AQ chính truyện của Lỗ Tấn và các tư liệu về văn hóa Trung Quốc.

7.    Bố cục

Đề tài này gồm ba chương:

Chương 1: VĂN HÓA NHẬN THỨC QUA AQ CHÍNH TRUYỆN

Chương 2: VĂN HÓA TỔ CHỨC QUA AQ CHÍNH TRUYỆN

Chương 3: VĂN HÓA ỨNG XỬ QUA AQ CHÍNH TRUYỆN

Chương 1: VĂN HÓA NHẬN THỨC QUA AQ CHÍNH TRUYỆN

1.1.    Nhận thức về giai cấp

1.1.1. Địa chủ

Qua tác phẩm AQ chính truyện của Lỗ Tấn, ta thấy thế lực phong kiến, đại diện là giai cấp địa chủ, nắm chặt vận mệnh của nhân dân Trung Quốc về nhiều mặt: chính trị, tôn giáo, đạo đức, và cả kinh tế.

Trong AQ chính truyện, tầng lớp địa chủ trong xã hội được miêu tả thông qua nhân vật cụ Cố họ Triệu và cụ Cố họ Tiền. Ở làng Mùi, cụ Cố họ Triệu, cụ Cố họ Tiền tượng trưng cho kỉ cương, cho pháp luật, cho chân lí. Những gì chúng nói có giá trị như mệnh lệnh, dân chúng không thể không nghe theo. Thế lực của chúng lớn đến nỗi tất cả những ai có dính líu đến chúng đều trở nên nổi tiếng và được người dân nể sợ. Trong tác phẩm, vấn đề này được thể hiện thông qua chi tiết AQ xúc phạm người ở của cụ Cố họ Triệu, bị cụ Cố họ Triệu đánh cho một bạt tai. Và thế là luôn cả người bị đánh cũng nhờ đó mà lẫy lừng [Lỗ Tấn (Trương Chính dịch) 2004: 45]. Đây là chi tiết cường điệu hóa uy lực của giai cấp thống trị. Sự cường điệu hóa này chính là một thủ pháp nghệ thuật của tác giả để tô đậm hiện thực – hiện thực về quyền uy tuyệt đối của giai cấp thống trị trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX.

 Cùng với giai cấp địa chủ, quan lại cũng là một thế lực đầy uy quyền trong xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Trong AQ chính truyện, Lỗ Tấn ít miêu tả về quan lại, nhưng ta vẫn có thể thấy được uy quyền to lớn của chúng qua câu chửi oảng pa tàn [sđd: 55]. Đó là câu mà con trai cụ Cố họ Triệu chửi AQ. Câu chửi này khiến AQ, thường ngày vẫn coi con trai cụ Cố họ Triệu chẳng ra gì, phải hoảng hốt, sợ hãi. Cũng là câu chửi, nhưng oảng pa tàn trở nên đáng sợ hơn tất cả các câu chửi khác, vì đây là câu chửi mà chỉ những người hay lui tới cửa quan mới dùng đến. Chi tiết này còn cho ta thấy quan lại và địa chủ cùng cấu kết để áp bức người dân. Chúng tạo ra liên minh quyền lực, không ai có thể phá nổi.

Dù vô cùng giàu có nhưng cả giai cấp địa chủ và quan lại vẫn không từ bỏ một thủ đoạn nào, một cơ hội nào để làm giàu. Trong AQ chính truyện, cụ Cố họ Triệu nghe AQ bán các loại quần áo đẹp với giá rẻ, biết là AQ bán hàng ăn cắp, nhưng vẫn gọi AQ đến hỏi mua và cụ Cố bà dặn dò khi nào lại có thì mang đến một cái áo ghi-lê thứ tốt nhưng phải cho rẻ [sđd: 67]. Thậm chí, trước khi AQ về, cụ Cố còn dặn bất cứ đồ lề gì, hễ có là đưa đây ta xem trước nhé [sđd: 68]. Rõ ràng biết là của phi nghĩa nhưng nhà địa chủ này chỉ nhìn thấy lợi và luôn muốn giành lấy phần hơn về mình. Lòng tham của giai cấp địa chủ, qua AQ chính truyện, là lòng tham vô đáy.

Tầng lớp quan lại, đại diện là bác khán ở làng Mùi, cũng là những kẻ tham lam chẳng khác nào giai cấp địa chủ. Chúng luôn tìm mọi cách để bóc lột người dân, từng hào một. Trong AQ chính truyện, bất cứ khi nào bác khán đến nhà, thường là viện lí do đảm bảo trật tự trị an, người dân phải đưa cho bác vài hào, gọi là tiền uống rượu, nếu không muốn bị phiền hà, rắc rối. Số tiền này sẽ phải tăng lên gấp đôi nếu bác khán đến nhà vào ban đêm. Cũng chẳng khác gì cụ Cố họ Triệu, khi nghe tin AQ bán hàng gian, bác khán đến khám nhà y và việc đầu tiên bác làm là lấy quách bức nghi môn [sđd: 69] và sau đó là vòi thêm ít tiền rượu hàng tháng [sđd: 70]. Qua những chi tiết này, bộ mặt hám của, tham tiền, nhũng nhiễu nhân dân của quan lại trong xã hội Trung Quốc hiện lên sinh động, rõ nét.

Như vậy, trong xã hội Trung Quốc bấy giờ, kẻ đang đè đầu cưỡi cổ dân nghèo không phải là một bọn áp bức, bóc lột thông thường. Bọn chúng là những kẻ uy quyền, nắm pháp luật trong tay và có đủ thủ đoạn để trói chặt dân nghèo, làm cho họ mê muội để dễ bề sai khiến, bòn rút. Phía sau chúng là cả một chế độ thống trị hàng nghìn năm bảo vệ.

1.1.2.     Nông dân

Đặt tên cho nhân vật chính của mình là AQ, Lỗ Tấn muốn qua đó nói về số phận của hàng triệu người nông dân Trung Quốc trong thời kì này, những người không tên tuổi, không chức phận, địa vị, không có gì đặc biệt hay nổi trội trong cuộc sống. Họ là những người bình thường, lặng lẽ, vô danh. Và qua những gì AQ nghĩ, AQ hành động trong tác phẩm AQ chính truyện, cũng là suy nghĩ, hành động chung của đông đảo nông dân trong xã hội Trung Quốc đương thời.

Trước hết, họ chính là đối tượng bị giai cấp địa chủ, quan lại áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công trong xã hội. Tuy nhiên, trong cuộc sống, họ vẫn chưa nhận thức được kẻ thù thực sự của mình. Nhân vật AQ luôn coi cu D. – một người nông dân cùng khổ giống y – là kẻ thù số một của đời mình, vì cho rằng cu D. đã giành mất công việc, cướp miếng cơm manh áo của y. Mỗi lần gặp cu D.,  AQ mắng và lườm cu D. bằng một cặp mắt rất dữ tợn [sđd: 60]. Không nhận ra được kẻ thù đích thực của mình, giai cấp nông dân trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX, qua AQ chính truyện, quay sang thù ghét nhau, giẫm đạp lên nhau vì cuộc sống. Theo Lỗ Tấn, người nông dân trong xã hội bấy giờ vừa đáng thương vừa đáng trách.

Đối với giai cấp thống trị thì họ nghe lời và sợ hãi đến mê muội. Khi cụ Cố coi AQ là kẻ thù thì cả làng Mùi không ai dám thuê AQ làm việc, cũng không dám tỏ ý thân thiện với AQ, vì họ sợ cụ Cố họ Triệu. Bản thân AQ, khi bị điệu ra công đường, dù y không hề có tội và được lệnh cứ đứng mà nói nhưng cái thân xác mà hiện giờ phút này y không tự chủ được nữa cứ ngã sụp xuốngThế là y đành cứ thế mà quỳ [sđd: 85]. Qua chi tiết này, Lỗ Tấn muốn nói đến sự đớn hèn của đông đảo người dân Trung Quốc lúc bấy giờ. Họ đã phải chịu sự áp bức, thống trị hàng ngàn năm và giờ đây, sự áp bức này đối với họ như một “lẽ tự nhiên”, không thể làm trái.

Một điều xấu xí, “căn bệnh quốc dân tính” ở người nông dân trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX – theo Lỗ Tấn – là sự tàn nhẫn và vô cảm. Họ không hề động lòng trước nỗi đau của người khác. Trái lại, họ coi đó là trò đùa, và họ hả hê, sung sướng khi chứng kiến sự bất hạnh của người khác. Khi AQ chòng ghẹo, bắt nạt cô tiểu chùa Tĩnh Tu, bao nhiêu người trong quán rượu cũng cười đắc ý gần bằng AQ [sđd: 50]. Không ai thương xót, bênh vực cô. Kết thúc câu chuyện, khi AQ bị đưa ra pháp trường xử bắn, hàng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi xem và thản nhiên bình luận. Họ coi việc đi xem người bị xử tử như là xem một cuộc diễu hành, như là một thú vui. Vì thế, họ không thỏa mãn vì bắn người trông không vui mắt bằng chém [sđd: 91]. Nhẫn tâm hơn, họ chê bai AQ và tiếc công đi theo người tử tù vì hắn không hát lên được một câu, thành ra theo nó bao nhiêu đường đất, chỉ mất công toi [sđd: 91]. Dưới ngòi bút của Lỗ Tấn, quần chúng còn mê muội và tàn nhẫn. Cái quần chúng trong AQ chính truyện chạy theo xem AQ, khi AQ bị đưa ra pháp trường, cũng là cái quần chúng đứng chứng kiến cuộc chặt đầu tên Hán gian tay sai của đế quốc Nga, sau khi bị đế quốc Nhật bắt được trong bài Tựa Gào thét. Đó là quần chúng thản nhiên cho Hạ Du là điên trong Thuốc. Đó cũng là quần chúng mà Lỗ Tấn đã trực tiếp chứng kiến khi ở Nhật, quần chúng khiến Lỗ Tấn từ bỏ học y chuyển sang viết văn để phanh phui căn bệnh tinh thần của quốc dân.

Trong những “bệnh tật” của người nông dân mà Lỗ Tấn nêu ra, có những bệnh do giai cấp thống trị mang lại, như tư tưởng định mệnh (Nhuận Thổ, trong truyện Cố hương), những điều mê tín dị đoan (thím Tường Lâm, trong truyện Lễ cầu phúc) hay phương pháp thắng lợi tinh thần (AQ trong AQ chính truyện). Nhưng có những bệnh tật thì, theo ông chính nông dân có sẵn trong người họ, thí dụ như thái độ bàng quan, lạnh nhạt trước những nỗi bất hạnh của kẻ khác.

Lỗ Tấn thấy nông dân là những người chịu hiều nỗi khốn khổ, nhưng không phải lúc nào họ cũng chịu lép một bề. AQ biết căm thù kẻ áp bức mình. Trong làng Mùi, y ghét nhất bọn địa chủ và con cái địa chủ. Y xem lão Tây giả, thằng cả con cụ Cố họ Tiền là kẻ thù của y. Lòng căm thù giai cấp địa chủ của người nông dân – qua nhân vật AQ – bộc lộ rõ nhất là lúc phong trào cách mạng nổi lên, AQ muốn làm cách mạng để cách mẹ cái mạng của bọn địa chủ, tìm cho mình con đường sống.

1.2.      Nhận thức về cách mạng

Đầu thế kỉ XX, đất nước Trung Quốc chịu những biến động dữ dội. Nhiều cuộc cách mạng xã hội diễn ra. Nhưng đối với đa số nông dân, cách mạng và các phong trào cách mạng ấy là một cái gì đó vô cùng trừu tượng, xa lạ, khó hiểu. Thậm chí, họ còn coi những người làm cách mạng chẳng khác gì những kẻ phản tặc hay những kẻ tội ác tày trời, làm cách mạng tức là làm giặc [sđd: 71]. Họ hớn hở cùng nhau đi xem những nhà cách mạng bị xử chém và bình phẩm giết tụi cách mạng ấy mà! Úi chao chao, vui vui quá cơ [sđd: 66].

Cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, qua AQ chính truyện, đối với người nông dân, chỉ là một cuộc chính biến, vương triều này đánh đổ vương triều kia để lên ngôi trị vì mà thôi. Vì thế, họ đồn nhau, bảo rằng những nhà cách mạng mặc áo giáp bạch, mũ bạch, ăn bận trắng toát một loạt để tang cho vua Sùng Chính [sđd: 71]. Họ cho rằng những người làm Cách mạng ủng hộ nhà Minh lật đổ nhà Thanh nên mới để tang cho vua Sùng Chính như thế.

Với giai cấp địa chủ, cách mạng là cơ hội để họ tiếp tục vơ vét. Khi phong trào cách mạng lan đến làng Mùi, cậu Tú nhà họ Triệu và lão Tây giả nhà họ Tiền hẹn hò cùng nhau đi làm cách mạng. Nhân danh cách mạng, chúng đến chùa Tĩnh Tu ra oai và khi chúng đi thì cái lư hương Tuyên Đức xưa nay vẫn để thờ trước tượng đức Quan Âm đã biến đâu mất rồi [sđd: 77]. Đoạn này nói rõ được tính chất cơ hội của bọn địa chủ trong cuộc cách mạng. Cậu tú họ Triệu, lão Tây giả đã trở thành những nhà cách mạng chính cống như thế. “Thành tích” duy nhất của chúng là đập nát cái bài vị thờ vua ở chùa Tĩnh Tu rồi cuỗm cái lư hương Tuyên Đức. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi, giai cấp địa chủ vẫn giữ quyền ở nông thôn như ngày trước, chẳng có gì thay đổi khác trước. quan huyện vẫn là quan huyện cũ, chẳng qua bây giờ gọi là quan gì gì ấy, mà Cụ Cử cũng làm quan gì gì ấy [sđd: 78]. Qua đó, Lỗ Tấn đã nói lên tính chất của cuộc khởi nghĩa, giai cấp tư sản thỏa hiệp với thế lực phong kiến. Trật tự xã hội và những bất bình đẳng mà người nông dân phải chịu vẫn không có gì thay đổi.

Trong AQ chính truyện, Lỗ Tấn vạch trần tính chất giả dối và phản động của giai cấp tư sản và phê phán tính chất không triệt để của phong trào cách mạng do giai cấp tư sản lãnh đạo. Kết quả của phong trào cách mạng đó là người dân vô tội bị bắt bớ, giam giữ do ông nội tớ còn thiếu Cụ Cử một món nợ cũ [sđd: 85]. Tư sản đã thỏa hiệp với giai cấp địa chủ và quyền lực vẫn nằm trong tay địa chủ phong kiến. Và giai cấp địa chủ đó, lợi dụng làn sóng cách mạng, tăng cường áp bức người dân.

Tiểu kết chương 1

Trên đây chúng tôi đã trình bày những nhận thức của Lỗ Tấn về các giai cấp trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX và nhận thức của người nông dân về Cách mạng Tân Hợi. Xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX mang trong nó những đặc điểm của xã hội Trung Quốc truyền thống, lâu đời. Trong xã hội đó, những mâu  thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị vẫn tồn tại dai dẳng. Qua AQ chính truyện, Lỗ Tấn đã cho chúng ta thấy những nhận thức mới mẻ của ông về giai cấp nông dân. Đó là sự hèn nhát, nhu nhược. Theo Lỗ Tấn, đây là căn bệnh nguy hiểm nhất mà nông dân Trung Quốc nói riêng, người dân Trung Quốc nói chung mắc phải. Về phía cách mạng, qua so sánhự phản ánh nhận thức sai lệch của nông dân về cách mạng, Lỗ Tấn đã chỉ ra những nguyên nhân quan trọng khiến cuộc cách mạng Tân Hợi không thành công, đó là thiếu sự tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân. Đồng thời, Lỗ Tấn cũng đã chỉ tính chưa triệt để của cuộc cách mạng này.

Chương 2: VĂN HÓA TỔ CHỨC QUA AQ CHÍNH TRUYỆN

2.1.  Tổ chức đời sống xã hội

Trong xã hội Trung Quốc thời bấy giờ, địa vị càng cao thì uy quyền càng lớn. Ở cái làng Mùi nhỏ bé, cụ Cố họ Triệu là oai phong nhất. Nhưng oai mấy cũng không thể bằng oai của cụ Cử trên huyện. Trong AQ chính truyện, nhân vật AQ rời làng Mùi lên huyện kiếm kế sinh nhai. Ở trên huyện, y làm công ở nhà cụ Cử. Khi trở về làng, mọi người nghe AQ làm việc ở nhà cụ Cử vô cùng kiêng nể y. Lỗ Tấn mỉa mai địa vị AQ – chưa thể nói rằng oai hơn Cụ Cố họ Triệu nhưng nói xấp xỉ thì cũng chẳng sai bao nhiêu [sđd: 66]. Chỉ là một kẻ đầy tớ cho cụ Cử trên huyện nhưng bấy nhiêu đó cũng khiến tên tuổi AQ trở nên lẫy lừng trong cái làng Mùi nhỏ bé, thậm chí oai phong không kém cụ Cố họ Triệu – người oai nhất làng từ trước đến giờ. Qua đó, ta thấy được tính tôn ti mạnh mẽ trong trật tự uy quyền ở xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX.

Trong xã hội Trung Quốc đương thời, tầng lớp địa chủ nắm quyền bính trong tay. Xung quanh chúng là cả một hệ thống tay sai, từ bác khán – đại diện cho chính quyền – đến những người dân thường như Triệu Bạch Nhãn, Triệu Tư Thần, thím Bảy Trâu. Tất cả bọn họ hoặc là bà con láng giềng, hoặc có quan hệ kinh tế, hoặc có quan hệ huyết thống với địa chủ. Vì nhiều lí do khác nhau, cuộc sống của họ dựa vào giai cấp thống trị, và họ đã trở thành tay sai đắc lực cho chúng. Thông qua đám tay sai, giúp việc trung thành tuyệt đối này, giai cấp địa chủ thao túng, lũng đoạn mọi mặt cuộc sống nhân dân. Không những thế, chúng đặt ra hết thông lệ này đến thông lệ nọ. Những thông lệ – dù hết sức vô lí – trở thành những tập quán bất di bất dịch, có khi lại còn hiệu lực hơn cả pháp luật nhà nước. Từ đó, ta thấy ở Trung Quốc thời bấy giờ, hiện tượng “phép vua thua lệ làng” cũng tồn tại hết sức mạnh mẽ. Trong AQ chính truyện, khi xảy ra việc tranh chấp, đánh nhau giữa người nhà cụ Cố họ Triệu và AQ, không cần tra hỏi, tìm hiểu, mọi người luôn luôn cho rằng nhất định là lỗi của AQ rồi [sđd: 45]. Những gì giai cấp thống trị làm, qua hình ảnh nhân vật cụ Cố họ Triệu trong tác phẩm AQ chính truyện, luôn luôn là “lẽ phải”, là “công lí”.

2.2.   Tổ chức đời sống cá nhân

Trong giới hạn của một tác phẩm khoảng 70 trang sách, Lỗ Tấn đã đề cập đến văn hóa tổ chức đời sống cá nhân của giai cấp thống trị, dù sự đề cập này chưa đầy đủ và toàn vẹn. Trước hết, giai cấp địa chủ – qua nhân vật cụ Cố họ Triệu – là những người giàu có nhất trong làng. Trong nhà luôn có người ăn kẻ ở và vú em. Tuy thế, chúng sống rất keo kiệt và bủn xỉn, ngày thường ở nhà này ăn cơm xong là đi ngủ ngay, lệ không được đỏ đèn [sđd: 54]. Để không phải vừa thắp đèn vừa ăn cơm, nhà cụ Cố họ Triệu ăn cơm tối sớm hơn nhà người khác. Lệ không được thắp đèn vào buổi tối ở nhà cụ Cố họ Triệu được tuân thủ tuyệt đối và chỉ có hai ngoại lệ, một là khi cậu Tú sôi kinh nấu sử [sđd: 54] và hai là khi AQ đến giã gạo đêm. Ngoài ra, những chi tiết này còn cho ta thấy được giai cấp địa chủ rất coi trọng việc học hành. Vì qua con đường học hành, đỗ đạt làm quan, địa chủ có thể trở thành quan lại. Ngược lại, nhờ làm quan, chúng có cơ hội vơ vét tài sản của nhân dân và nhanh chóng trở nên giàu có, chiếm được nhiều đất đai. Từ đó, ta thấy được mối liên minh địa chủ – quan lại vô cùng bền vững trong xã hội Trung Quốc bấy giờ.

Còn những người nông dân, đại diện là AQ, đến cái họ của mình cũng bị tước mất. AQ vốn họ Triệu nhưng vì nghèo đói, nên không được nhận là họ Triệu, họ của tên địa chủ giàu có nhất làng Mùi, mày là người họ Triệu thế nào được kia chứ? Mày mà họ Triệu vào cái ngữ nào? [sđd: 35]. Người nghèo hèn thì cả cái họ của mình cũng không được nhận. Không có họ thì không có thân thích. Và cả quê quán cũng không có nốt. AQ họ gì chưa rõ lắm, thì quê quán y ở đâu cũng chưa có thể xác định được. Tiếng rằng AQ bình sinh vẫn trú ngụ ở làng Mùi, nhưng y lại cứ luôn đi ngủ trọ đâu đâu ấy. Thành thử không thể nói y là người làng Mùi được [sđd: 37]. Đó là số phận bi thảm của người bần cố nông trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX.

Cuộc sống của AQ cũng hết sức khổ cực, bấp bênh. Y không hề có nhà cửa. Nơi ở của y là đền Thổ Cốc làng Mùi [sđd: 38]. Y cũng không có nghề nghiệp nhất định, ai kêu gì làm nấy, việc lúc có lúc không, tiền công rẻ mạt. Y sống ngày nào biết ngày đó, không biết được tương lai sẽ ra sao. Khi phải nộp phạt vì xúc phạm người ở của cụ Cố họ Triệu, AQ lâm vào cảnh cùng quẫn. Để lo số tiền nộp phạt, AQ cả cái áo chẽn bông cũng bán đi rồi [sđd: 61]. Vật đáng giá nhất còn lại của AQ là cái quần trên người và y cũng đắn đo muốn bán, vì y vẫn chưa thể nào lo đủ số tiền nộp vạ cho cụ Cố họ Triệu. Qua AQ, ta thấy trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX vẫn tồn tại những người bần cố nông, không tài sản, không nơi tấc đất.

Tiểu kết chương 2

Trong lĩnh vực tổ chức đời sống xã hội, qua AQ chính truyện, ta thấy nổi rõ lên vai trò quan trọng, quyền lực của giai cấp địa chủ. Chúng là những kẻ nắm quyền hành trong tay, điều khiển toàn bộ cuộc sống của người dân. Về lĩnh vực tổ chức đời sống cá nhân, qua tác phẩm của Lỗ Tấn, ta thấy được cách tổ chức đời sống của hai giai cấp tiêu biểu lúc bấy giờ, giai cấp địa chủ và giai cấp nông dân. Địa chủ thì giàu sang, tiền của đầy nhà nhưng hết sức keo kiệt, bủn xỉn. Nông dân thì lâm vào cảnh nghèo khốn cùng, không tấc đất cắm dùi, không quê quán, không thân thích

Chương3: VĂN HÓA ỨNG XỬ QUA AQ CHÍNH TRUYỆN

3.1  Lấy mình làm bản vị

Với bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời, người Trung Quốc luôn tự hào về dân tộc mình, lấy các giá trị của dân tộc mình làm thước đo giá trị các dân tộc xung quanh. Đến lượt cá nhân mình, người Trung Quốc lấy mình làm thước đo để nhận xét người khác. Chỉ những gì bản thân mình làm mới là chuẩn, là đúng. Người ta làm khác mình tức là người ta sai, người ta kém cỏi. Trong AQ chính truyện, cách ứng xử trên được thể hiện qua các chi tiết AQ chê người trên huyện là đáng cười, là sai chỉ vì người trên huyện gọi ghế dài là “tràng kỷ”, cho nhánh hành thái nhỏ vào chảo khi rán cá [sđd: 39]. Theo Lỗ Tấn, đây cũng là một thứ căn bệnh tinh thần thâm căn cố đế không chỉ của người nông dân mà còn là của đại bộ phận người dân Trung Quốc – căn bệnh do di chứng của chế độ phong kiến trì trệ, kéo dài hàng ngàn năm ở Trung Quốc.

3.2.  Nam giới là nhất

Chế độ phong kiến và học thuyết Nho gia ở Trung Quốc kéo dài hàng thế kỉ, vì thế, nhiều tư tưởng, quan niệm của nó đã ảnh hưởng sâu đậm cách đối nhân xử thế của mọi giai tầng trong xã hội. Một trong những tư tưởng phổ biến, hằn rõ trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX là tư tưởng trọng nam khinh nữ. Ngay cả đến AQ, một bần cố nông, không hề học qua chữ nghĩa Khổng – Mạnh, suốt đời chỉ quay quắt với miếng cơm manh áo, cũng hết sức khinh miệt phụ nữ. Khi AQ biết cái đuôi sam của lão Tây giả là đồ giả, AQ cho đó là một điều sỉ nhục ghê gớm và tự nhủ thế mà con vợ hắn không biết đường nhẩy xuống giếng một lần thứ tư nữa cho chết quách đi [sđd: 48]. Qua chi tiết trên, ta thấy AQ quan niệm vợ phải theo chồng, và phải giữ gìn tiết hạnh của mình. Chồng sang thì vợ được nhờ nhưng chồng làm điều thất đức, sỉ nhục thì người vợ phải lấy tính mạng của mình để can ngăn chồng và chứng tỏ tiết hạnh của bản thân. Thật là một quan niệm đầy bất công đối với phụ nữ. Thậm chí, ngay cả một người như AQ cũng cho rằng đàn ông nước Trung Hoa nhà mình phần đông vốn có thể thành ông thánh hiền cả. Chỉ tai hại vì một lũ đàn bà mà thành ra hỏng hết [sđd: 52]. Đây là quan niệm hết sức thiên lệch, đầy bất công đối với phụ nữ của giai cấp phong kiến. Lần giở các trang sử Trung Quốc, các câu chuyện về Trụ Vương, Ngô Phù Sai, Đường Minh Hoàng,… hầu hết mọi người đều chung một nhận định rằng họa vong quốc là do nữ sắc gây ra. Hầu như chẳng có sử gia hay tác giả truyện dân gian nào kết án vua cả. Và giờ đây, qua AQ chính truyện, ta thấy tư tưởng này ảnh hưởng đến suy nghĩ của từng người đàn ông trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX, cho dù đó là kẻ khố rách áo ôm, thuộc loại cùng đinh trong xã hội như AQ. 

3.3  “Mạnh được yếu thua

Ở làng Mùi, AQ chẳng bằng ai, khi đánh nhau với mọi người thì AQ thua nhiều hơn được. Nhưng so với một cô gái chân yếu tay mềm như cô tiểu chùa Tĩnh Tu – một cô gái yếu ớt, hiền lành – thì AQ mạnh hơn hẳn. Vì thế, hắn thả sức bắt nạt cô, ngay giữa chốn đông người và lấy thế làm đắc ý, muốn cho bấy nhiêu “khán giả” được hài lòng, y rán sức véo luôn một cái nữa thật mạnh vào má cô bé rồi mới buông tay [sđd: 50]. Y không đánh lại  lão “Tây giả” được thì y chọc phá cô tiểu chùa Tĩnh Tu. Bị kẻ mạnh hơn bắt nạt, AQ không làm gì được nên hắn tìm kẻ yếu hơn mình để bắt nạt lại. Đằng nào AQ cũng phải thắng mới chịu. Đây là phép “thắng lợi tinh thần” của AQ.

Thường ngày, AQ trú nhờ trong đền Thổ Cốc. Vậy nên với lão giữ đền, AQ có một chút kiêng dè. Chỉ cần AQ về quá giờ quy định là lão đóng cửa đền, không cho y vào. Nhưng sau đó, khi AQ theo cách mạng, dựa vào thanh thế của cách mạng thì thái độ đối xử của người dân làng Mùi, và của lão giữ đền Thổ Cốc đối với AQ thay đổi hẳn. Không những không còn khinh miệt AQ, lão  còn làm một bữa cơm thịnh soạn chờ AQ về ăn. AQ được mời, chễm chệ ngồi ăn, ăn xong, y còn lấy một đoạn nến bốn lạng thắp dở và cái cọc nến mang về buồng nhỏ của y [sđd: 74]. Sự đổi ngôi trong mối quan hệ giữa AQ và lão chủ đền là do sự thay đổi vị thế giữa hai bên. Qua đó, ta cũng thấy được phần nào cách ứng xử tương đối phổ biến trong Trung Quốc lúc bấy giờ. “Cá lớn nuốt cá bé”, “kẻ mạnh hiếp đáp kẻ yếu” là hiện tượng thường thấy ở xã hội Trung Quốc đương thời.

3.4 “Phép thắng lợi tinh thần”

Trong xã hội truyền thống Trung Quốc, người dân luôn sợ hãi địa chủ và quan lại. Vì chúng nắm cả kinh tế, cả luật pháp, điều hành toàn bộ đời sống xã hội. Nhưng đến đầu thế kỉ XX, qua AQ chính truyện, một thế lực nữa khiến người dân phải nể trọng và có đôi chút khiếp sợ – thế lực đồng tiền. Cũng là AQ, nhưng khi mang trong người mình những xâu tiền lủng lẳng, AQ được người dân trong làng Mùi trọng thị hẳn lên, vì kinh nghiệm của mọi người là đối với hạng người này, thà kính trọng họ một chút còn hơn là tỏ vẻ khinh bỉ [sđd: 64]. Qua đó, ta thấy ngoài tầng lớp thống trị, người dân Trung Quốc còn chịu sự áp bức của những người lắm tiền nhiều của.

Trong xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX, người dân chịu nhiều áp bức, bất công, cuộc sống bất hạnh. Và cách để người ta đối diện với những điều bất như ý trong hiện tại là tìm về quá khứ nhà tao xưa kia có bề thế bằng mấy nhà mày kia [sđd: 38] để tự hào, làm chỗ dựa tinh thần; hoặc mơ tưởng tới tương lai con tớ ngày sau lại không làm nên, to bằng năm bằng mười lũ ấy à! [sđd: 39] để hả hê, làm động lực tồn tại. Trốn về quá khứ hay sống trong ảo tưởng tương lai cũng là một “căn bệnh tinh thần” trong cách ứng xử với đời sống xã hội của đông đảo nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ. Trước thực trạng xã hội đen tối, bi đát, một số người hoài niệm thời vàng son đã qua và lấy đó làm hãnh diện khi so sánh với các nước phương Tây. Một số khác thì lại tự nhủ rồi tương lai sẽ tốt đẹp hơn. Đó là những cách ứng xử tiêu cực, khiến xã hội Trung Quốc trì trệ và Lỗ Tấn ví von cách ứng xử của người dân như vậy chẳng khác nào đang “ngủ yên trong cái hộp bằng sắt không có cửa sổ, tưởng là an toàn, bình yên nhưng thực tế là sẽ bị chết ngạt lúc nào không biết.

Một “phép thắng lợi tinh thần” khác của AQ là lườm kẻ thù bằng một cặp mắt giận dữ [sđd: 40]. Không đánh lại kẻ thù mạnh hơn mình, AQ tự xoa dịu, tự hài lòng bằng cách khinh bỉ chúng, coi thường chúng, thậm chí cho rằng thứ chúng mày không xứng [sđd: 41]. Đó là “phép thắng lợi tinh thần” không chỉ của AQ mà còn là của đông đảo tầng lớp Nho sĩ trong xã hội Trung Quốc bấy giờ. Với rất nhiều lí thuyết Khổng – Mạnh, với niềm tự hào về truyền thống 4000 năm của dân tộc, họ tự cho mình là thanh cao, là danh giá, họ xem thường, khinh bỉ người Tây, người Nhật, coi những dân tộc ngoại bang thấp kém hơn mình và không thèo tranh cãi, đánh nhau với chúng. Thực chất của cách ứng xử đối với ngoại bang này, theo Lỗ Tấn, là “căn bệnh tinh thần” của nhân dân Trung Quốc. Hay đó chẳng qua là cách sống hèn nhát và tự ru ngủ mình của một bộ phận không nhỏ nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ.

Nếu bất đắc dĩ phải đối đầu với kẻ thù mạnh hơn mình, AQ đứng chịu trận và tự nhủ nó đánh mình thì khác gì nó đánh bố nó [sđd: 41], hoặc cứ cho là “con nó cướp của bố đi” [sđd: 44]. Thậm chí, nếu bị đòn đau quá, tự nhủ như thế vẫn chưa thể giúp tinh thần mình thoải mái được, AQ sẽ Chuyển bại thành thắng bằng cách tự đánh mình thật đau và tưởng tượng người đánh là mình mà người bị đánh lại là một “mình” nào khác [sđd: 44]. Đó là chi tiết có tính chất cường điệu, khoa trương của Lỗ Tấn khi xây dựng nhân vật AQ và phép thắng lợi tinh thần của y. Nhưng qua chi tiết này, ta thấy được sự thật là trong cuộc sống xã hội lúc bấy giờ, có những kẻ bất tài nhưng đầy ảo tưởng. Thực chất, những kẻ đó không bằng ai nhưng lại luôn thích tự cho rằng mình giỏi hơn người khác, người khác không ai có thể sánh bằng mình. Những kẻ đó không bao giờ chịu chấp nhận thất bại, luôn tìm lí do để bào chữa cho sự hèn kém của mình.

Một cách ứng xử với những nguy hiểm trong cuộc sống là tư tưởng “số mệnh”. Trước mối tai họa đe dọa sinh mạng của bản thân, AQ cũng có thể tìm cách tự hài lòng với nghịch cảnh. Khi AQ bị điệu ra công đường hỏi cung và kí tên vào bản cung, AQ trong bụng vô cùng lo lắng nhưng không còn cách nào để thoát khỏi cảnh ngộ nguy hiểm này, y tự nhủ người ta sinh ra ở trong trời đất thì tất cũng phải có lúc bị dắt ra dắt vào trong ngoài một cái trại giam, có lúc phải nắm cái quản bút mà vẽ một cái vòng tròn [sđd: 85]. Nhủ thế, y yên tâm với hoàn cảnh hiện tại, chẳng còn băn khoăn vì sau mình bị đối xử bất công đến thế, cũng chẳng còn lo lắng hậu quả của cái việc vẽ cái khuyên tròn vào bản cung là gì. Đến khi bị đưa đi hết phố này đến phố khác để mọi người trông thấy, ban đầu AQ cũng cảm thấy đó là một hành động khiến y cảm thấy mất mặt, lo lắng nhưng sau đó, y cũng đã mượn đến “số mệnh” và cho rằng người ta sinh ra trong trời đất, trước sau cũng có một lần phải bêu phố để cho mọi người trông thấy như vậy [sđd: 89]. Thậm chí, đến khi đối diện với đao phủ, cuộc sống chỉ còn tính bằng giây phút, AQ cũng có thể tự tìm cách thỏa mãn, hài lòng với hiện tại khắc nghiệt, phũ phàng đó bằng cách nhủ với mình người ta sinh ra trong trời đất, trước sau cũng có thể có một lần bị chặt đầu [sđd: 89]. Đó chính là mức độ cao nhất của “phép thắng lợi tinh thần” của AQ. Qua đó, ta có thể thấy rằng thuyết “số mệnh” đã an sâu vào tâm tưởng người dân Trung Quốc, trở thành phương châm xử thế của họ. Chính thuyết “số mệnh” đã khiến cho AQ, và nhân dân Trung Quốc, trở nên u mê, lạc hậu, trì trệ. Hậu quả là cả xã hội thành một con bệnh trầm kha, kìm hãm sự phát triển của dân tộc, kéo dài cuộc sống bị đô hộ, áp bức.

Tiểu kết chương 3

Có thể nói trong tác phẩm AQ chính truyện của Lỗ Tấn, văn hóa ứng xử với môi trường xã hội của người dân Trung Quốc đầu thế kỉ được phản ánh rõ nét, sinh động. Thành công của Lỗ Tấn là đã phát hiện ra những quy luật ứng xử của người dân Trung Quốc trong giai đoạn này. Có những quy luật là hệ quả của chế độ phong kiến cổ hủ hàng ngàn năm, đó là cách ứng xử theo cách lấy mình làm bản vị để phán xét người khác, là thái độ coi thường người phụ nữ. Có những quy luật là sản phẩm đặc trưng của xã hội Trung Quốc đương thời, như “mạnh được yếu thua” hay những phép “thắng lợi tinh thần”. Từ những cách ứng xử trong xã hội Trung Quốc, Lỗ Tấn đã khái quát thành những quy luật chung và tập trung thể hiện chúng qua nhân vật AQ.

KẾT LUẬN

Lỗ Tấn là nhà văn hiện thực nổi tiếng của Trung Quốc đầu thế kỉ XX. Những hiện thực trong tác phẩm của ông nói chung, AQ chính truyện nói riêng, là hiện thực nhức nhối, căn bệnh trầm kha trong xã hội Trung Quốc đương thời. Điểm đặc sắc, giá trị cao nhất trong tác phẩm của ông chính là do Lỗ Tấn đã phát hiện và phản ánh thực trạng xã hội, đời sống văn hóa của người dân Trung Quốc ở những góc độ mới mẻ, chân thực nhất. Thông qua tác phẩm của Lỗ Tấn, ta có thể hình dung phần nào bức tranh đời sống văn hóa của nông dân – giai cấp chiếm đa số – trong xã hội Trung Quốc thời bấy giờ.


TPHCM, 11.06.2021

TRƯƠNG HOÀNG LONG




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

VĂN HOÁ GIAO TIẾP của NGƯỜI NAM BỘ qua TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH – MỘT GÓC NHÌN                                                             ...